ĐI DỌC HÀ NỘI – PHẦN 2
Tác giả: Nguyễn Ngọc Tiến
20.“Một chọi một lên cột đồng hồ!”
Những năm 60, 70 thế kỷ trước, mỗi khi hai đám con
trẻ xảy ra mâu thuẫn đến mức cần phải đánh nhau
thì hỏi nhau "táp lô hay quân tử" (táp lô là hai
bên cùng xông vào đánh, quân tử là một chọi một),
thống nhất được mới bắt đầu đánh nhau và bên nào bỏ
chạy nghĩa là bên đó thua. Trong giới trẻ còn có
câu nữa: “Một chọi một lên cột đồng hồ” . “Một chọi
một” nghĩa là để giải quyết va chạm hoặc mâu
thuẫn, cánh thanh niên xử sự rất quân tử là đánh
nhau tay đôi, còn “cột đồng hồ” là địa danh ở đầu
phố Hàng Đậu, nơi có chiếc đồng hồ công cộng. Nhưng
tại sao lại rủ nhau lên cột đồng hồ để tỷ thí? Và
1có phải cột đồng hồ Hàng Đậu hay cột đồng hồ khác
vì Hà Nội có khá nhiều cột đồng hồ công cộng?
Chiếc đồng hồ ở tháp giữa, ngay dưới thánh giá của
Nhà Thờ lớn trên phố Nhà Chung khánh thành vào
Noel năm 1886. Đúng 12 giờ đêm hôm đó, nó gióng rả
12 tiếng chuông làm các tín đồ công giáo và cư dân
quanh khu vực ngạc nhiên. Dù đồng hồ của nhà thờ
công giáo để con chiên biết giờ hành lễ, song nó
cũng là đồng hồ công cộng theo kiểu phương Tây đầu
tiên ở Hà Nội. Mặt đồng hồ quay ra ngoài đường, ai
cũng nhìn thấy, hơn nữa, đồng hồ này không tính
theo giờ âm lịch của Trung Hoa mà tính theo múi giờ
Việt Nam (GMT+7). Không rõ chiếc đồng hồ sản xuất
ở Pháp hay Thụy Sỹ, mặt đồng hồ có đường kính là
bao nhiêu, nhưng đó là đồng hồ dây cót, bộ phận lên
2dây giống như vô lăng ô tô. Cứ cách một tiếng, có
bõ từ nhà thờ ra kéo chuông. Nhà văn Nguyễn Việt
Hà, dân phố Nhà Chung và mẹ ông là dân công giáo kể
rằng thời bao cấp có một người chuyên kéo chuông
đồng hồ tên là Đạt, mọi người thường gọi là bõ Đạt.
Đồng hồ và truyền giáo chẳng có gì liên quan với
nhau, thế nhưng ở đất Thăng Long, đồng hồ giúp các
nhà truyền giáo thực hiện được sứ mệnh của họ.
Chuyện đó diễn ra vào đầu thế kỷ XVII. Sau mấy năm
dọc ngang ở Đàng Trong, giáo sỹ Alexandre de Rhodes
(1591-1660), một trong những người ngoại quốc góp
phần sáng tạo ra chữ Việt hôm nay, quyết định ra
Đàng Ngoài truyền giáo. Tháng 3-1627, ông được chúa
Trịnh Tráng, con trai cả của Trịnh Tùng, khi đó
3đang mang quân đi đánh Đàng Trong, gọi đến gặp ở
Ninh Bình. Đánh nhau trở về, ngày 2-6-1627, Trịnh
Tráng cho gọi Alexandre de Rhodes vào thành Thăng
Long, cho phép ông được giảng đạo. Chỉ một khoảng
thời gian ngắn, từ Giáng sinh năm 1927 đến lễ Phục
sinh (tháng Tư) năm 1628 đã có 500 người dân được
rửa tội và hai mươi nhà thờ được xây dựng. Lo ngại
trước thành công đó, triều đình quyết định trục
xuất Alexandre de Rhodes và đoàn truyền giáo. Tuy
nhiên, họ tìm cách lần lữa, chỉ ra khỏi Thăng Long
mà không trở vào Đàng Trong. Họ sống quanh quẩn ở
Phố Hiến và các tỉnh lân cận. Lúc này dân ở Đàng
Ngoài không có tục xem đồng hồ, với họ là “cơm vua,
ngày trời”, thời gian đâu có ý nghĩa gì. Thế nên
người dân chia ngày ra làm ba phần: buổi sáng, buổi
4trưa, buổi tối và ấn định thêm một chút là gần nửa
buổi sáng, gần nửa buổi chiều. Ban đêm được chia
làm năm canh. Chỉ có nhà quan mới dùng đồng hồ, vì
họ phải biết giờ để vào chầu vua chúa, biết giờ để
xuất hành... Nhưng đồng hồ các quan dùng chủ yếu
theo kiểu Hồi giáo, là những gáo đồng được thả vào
trong một bồn nước. Các gáo đồng được đục một lỗ
nhỏ, khi gáo đầy nước sẽ rơi xuống đáy. Người trông
đồng hồ lúc đó sẽ đánh vào chiếc cồng và tùy theo
là canh mấy mà đánh bao nhiêu tiếng. Nhưng cũng có
quan lại dùng đồng hồ cát, và khi đồng hồ cát có
vấn đề thì họ đành phải chờ thợ của triều đình đến
sửa. Nhưng thợ thì ít trong khi có quá nhiều đồng
hồ hỏng. Biết được điều này, các nhà truyền giáo đã
học cách làm và sửa đồng hồ cát, việc không quá
5khó đối với họ. Và thế là khi cần làm đồng hồ, các
quan cho gọi nhà truyền giáo. Mỗi lần vào thành làm
đồng hồ chỉ mất từ năm đến sáu tiếng nhưng họ kéo
dài công việc đến mười có khi là mười hai ngày,
trong thời gian đó, họ kiếm cớ đi gặp con chiên và
giảng đạo.
Đồng hồ nước, đồng hồ cát và đồng hồ mặt trời đã
được sử dụng trong hoàng cung các triều Lý và Trần.
Trong các bản án chém đầu kẻ tội trọng đều ghi rõ
chém vào giờ gì khắc gì và vì thế tại nơi thi hành
án, quan hành khiển cho khiêng ra đó chiếc đồng hồ.
Đúng giờ mới trảm, sở dĩ phải làm như vậy vì sợ kẻ
bị chém chết vào giờ xấu, không thành thần mà
thành ma sẽ quấy nhiễu họ và gia đình. Trước cổng
nha môn, triều đình cũng cho đặt đồng hồ để dân
6biết mấy giờ mấy khắc sẽ được vào thưa gửi quan.
Trong một cuốn sách, Nguyễn Công Trứ từng nói đến
một người Việt chế ra chiếc đồng hồ có dây cót bằng
tre, nghĩa là gần như đồng hồ của phương Tây. Chắc
là không ổn vì đồng hồ đâu phải đồ chơi. Thời
phong kiến, thời gian một ngày dựa theo mặt trời
mọc, đứng bóng, mặt trời lặn, đêm và được chia
thành 12 canh như Trung Hoa, bắt đầu từ canh Tý (từ
23 giờ đến 1 giờ), 24 giờ gọi là chính Tý, tiếp
theo canh Tý là đến canh Sửu (từ 1 giờ đến 3 giờ),
canh Dần bắt đầu từ 3 đến 5, canh Mão từ 5 đến 7,
canh Thìn từ 7 đến 9, canh Tỵ từ 9 đến 11, canh Ngọ
từ 11 đến 1 giờ và 12 giờ trưa gọi là chính Ngọ,
cuối cùng là canh Hợi (21 giờ đến 23 giờ). Một canh
giờ có 12 khắc (1 khắc tương đương 10 phút). Song
7khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm không gian thì
từ canh Tuất (từ 19 giờ đến 21 giờ) người ta lại
gọi là canh một, canh hai (từ 21 giờ đến 23 giờ),
canh ba (từ 23 giờ đến 1 giờ), canh tư (từ 1 giờ
đến 3 giờ) và canh năm (từ 3 giờ đến 5 giờ sáng).
Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã cho chuyển kinh đô
từ Thăng Long vào Huế, hạ cấp Thăng Long xuống Bắc
thành rồi cho phá thành cũ xây thành mới nhỏ hơn
đã cho làm một chiếc đồng hồ. Chiếc đồng hồ này chế
tạo theo kiểu đồng hồ Hồi giáo mà trước đó quan
lại thời Hậu Lê đã dùng nhưng to hơn. Vị trí đặt
đồng hồ trông ra đường Nguyễn Tri Phương hiện nay.
Lối vào gọi là cổng đồng hồ, có lính canh bên
ngoài. Khi gáo đồng rơi xuống đáy bể người trực
canh báo cho lính đánh trống biết là canh mấy.
8Nhưng trống ban ngày và đêm khác nhau. Canh một
đánh một hồi, canh hai đánh hai hồi, canh năm đánh
năm hồi nhưng đến canh Mão lại chỉ đánh một tiếng,
canh Thìn đánh hai tiếng và canh Dậu (chuẩn bị
chuyển sang canh một) đánh bẩy tiếng. Năm 1933, báo
Tiếng dân có bài viết về thân phận lính đánh trống
canh xưa: “Người gác đồng hồ đêm trước nhà có giỗ
uống quá chén nên đêm sau trực ngủ quên, nửa đêm
nghe tiếng trống canh giật mình tỉnh dậy vội chạy
đến chỗ anh đánh trống hỏi han thì mới vỡ lẽ do làm
nghề này quá lâu nên cứ đúng canh một người anh
giật một hồi, canh hai giật hai hồi, canh ba giật
ba hồi. Thấy người giật lại không thấy lính báo giờ
chạy sang nên đoán ngủ quên thế là cứ đánh.” Đêm
ngày 24 rạng ngày 25-4-1882, trước lúc quân Pháp
9bắn đại bác vào thành Hà Nội, dân vẫn còn nghe
trống canh. Khi thực dân Pháp chiếm thành, biến
thành nơi đóng quân, thì nhiều công trình bị phá bỏ
trong đó có chiếc đồng hồ một thời gian dài gắn bó
với dân thành Thăng Long.
Trong các cuốn sách viết về Hà Nội và xứ Đàng
Ngoài thế kỷ XVII của các nhà truyền giáo phương
Tây thì những nhà buôn người Hà Lan, người Anh đã
sử dụng đồng hồ quả quít nhưng chỉnh theo canh giờ
Đại Việt. Đồng hồ quả quít do người Việt sở hữu
chắc chắn xuất hiện trước tiên ở Sài Gòn. Còn ở Hà
Nội, theo gia phả dòng họ Nguyễn Đình (quê gốc ở
làng Hạ Thái, huyện Thường Tín) sống nhiều đời ở
phường Diên Hưng (nay là khu vực phố Hàng Ngang) có
nói đến chiếc đồng hồ quả quít do phương Tây chế
10tạo nhưng không có chữ số La Mã mà ghi giờ Tý đến
giờ Ngọ bằng chữ Hán. Chiếc đồng hồ nhà buôn họ
Nguyễn Đình sở hữu do một người buôn Trung Quốc
tặng năm 1874. Trong Một chiến dịch ở Bắc Kỳ,
Hocquard viết: “Năm 1883, tôi đã thấy ở Hà Nội có
mấy tiệm sửa đồng hồ quả lắc và đồng hồ quả quýt.”
Sau chiếc đồng hồ Nhà thờ lớn, chiếc đồng hồ công
cộng thứ hai là ở Bưu điện Hà Nội. Năm 1886, thực
dân Pháp cho phá chùa Báo Ân để xây Bưu điện, trên
tầng hai tòa nhà chính hướng ra hồ, họ cho lắp một
đồng hồ. Không rõ do hãng nào sản xuất nhưng đó là
chiếc đồng hồ hai kim, chữ số La Mã. Tuy nhiên họ
không lấy theo múi giờ Việt Nam mà lấy theo múi giờ
Paris nên sau này khi có thêm đồng hồ trên nóc nhà
Godard, đồng hồ này lấy theo múi giờ Việt Nam nên
11nhiều người không biết tin vào đồng hồ nào. Năm
1902, ga Hàng Cỏ khánh thành, tại tầng hai tòa nhà
chính, người ta cũng cho lắp chiếc đồng hồ hình
tròn, mặt bằng đá có đường kính 1,8 mét. Căn phòng
để máy móc của chiếc đồng hồ này rộng hai mươi mét
vuông và cứ hai ngày lên dây cót một lần. Khi lên
dây cót, công nhân quay cánh tay đòn giống như
maniven ô tô. Cũng năm đó, cầu Long Biên đã hoàn
thành và ở đầu phố Hàng Đậu, chính quyền cho dựng
cột đồng hồ công cộng, hai mặt hình tròn, một mặt
quay về hướng Bắc và mặt kia quay về hướng Nam. Như
vậy người qua cầu sang bên Gia Lâm và khách lên ga
Long Biên đều có thể biết giờ. Có một điều cho
đến bây giờ cũng không ai hiểu được là đầu thế kỷ
XX, ngày nắng cũng như ngày mưa, sáng nào lính Pháp
12đóng ở Đồn Thủy cũng kéo khẩu pháo hạng nhẹ ra
ngoài bãi cát sông Hồng (nay là Hàm Tử Quan), đúng
10 giờ là bắn một phát rồi lại kéo pháo về. Người
Hà Nội gọi là pháo báo giờ nhưng sao lại bắn lúc 10
giờ, để làm gì? Pháo báo giờ kéo dài đến năm 1925
thì chấm dứt. Ngày 17-2-1947, Trung đoàn Thủ đô rút
khỏi Hà Nội và trong bài thơ Sông Hồng, lời từ
biệt của Trung đoàn Thủ đô, Lưu Quang Vũ đã bùi
ngùi nhớ đến địa danh cột đồng hồ:
Ngoảnh nhìn Hà Nội rưng rưng
Liên khu Một bập bùng lửa cháy
Phất Lộc, Nguyễn Siêu, Hàng Chiếu
Ô Quan Chưởng, Cột Đồng Hồ...
Kể từ khi Pháp trở thành quốc gia bảo hộ An Nam
năm 1884 thì họ lấy giờ GMT+7 để tất cả phải theo
13nhưng khuya ngày 31-12-1942, rạng ngày 1-1-1943,
lúc này quân Nhật đang ở Việt Nam đã bắt lên thêm
một giờ thành GMT + 8. Đến ngày 31-3-1945, họ lại
tăng thêm một giờ nữa để lính Nhật sang Việt Nam
không phải điều chỉnh giờ, phù hợp với giờ bên nước
Nhật, tạo thuận tiện cho kế hoạch tác chiến của
họ. Ngay sau khi cướp chính quyền ở Hà Nội, ngày
19-8-1945, chính quyền mới lại lấy giờ Việt Nam
theo múi giờ GMT+7 và thống nhất trên toàn lãnh
thổ. Đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi múi
giờ ở miền Bắc vãn giữ nguyên thì kể từ khuya ngày
31-12-1959, rạng ngày 1-1-1960, giờ của miền Nam bị
kéo lên thêm một giờ, tức là GMT+8. Sau ngày thống
nhất đất nước, từ ngày 1-5-1975, giờ Việt Nam
thống nhất là GMT+7.
14Hà Nội bị Mỹ đánh phá, những chiếc đồng hồ ít được
chú ý nhiều. Ngày 21-12-1972, bom B52 Mỹ đã ném
trúng dãy nhà trung tâm ga Hàng Cỏ, làm chiếc đồng
hồ tan nát. Còn chiếc đồng hồ ở bưu điện Bờ Hồ thì
dự án xây nhà điều hành mới do Trung Quốc viện trợ
cũng đã dỡ bỏ sau hơn 80 năm tồn tại, thay vào đó
là chiếc đồng hồ chạy điện do Trung Quốc chế tạo và
chỉ có hai chiếc. Sau khi lắp xong, các chuyên gia
thấy Lê Thị Yến còn trẻ lại nhanh nhẹn đã đề nghị
lãnh đạo để Yến trông coi và Giám đốc bưu điện Hà
Nội khi đó là ông Nguyễn Minh Chí chấp thuận. Lễ
khánh thành chiếc đồng hồ diễn ra vào đúng 11 giờ
trưa ngày 2-9-1978 bằng bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ
tịch với nhịp điệu chậm vang xa làm nhiều người
trong cả một khu vực rộng lớn xúc động. Bà Yến kể,
15khi công việc lắp đồng hồ đã xong, chuyên gia Trung
Quốc đưa ra khá nhiều bản nhạc Trung Hoa trong đó
có cả bài Việt Nam – Trung Hoa, nhưng hội đồng chọn
nhạc không đồng ý. Cuối cùng, hội đồng quyết định
chọn bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ tịch. Nhạc được thu
vào băng từ, cách ba tiếng và bắt đầu từ ba giờ
nhạc lại phát một lần. Phó đoàn chuyên gia, ông
Vương Ngọc Dung trước khi rút khỏi Việt Nam đưa cho
Yến sơ đồ của chiếc đồng hồ rồi bảo vẽ lại. Yến
thức trắng một đêm, hôm sau mang đến trước sự ngạc
nhiên cùng thán phục của chuyên gia Dung.
Rồi đoàn chuyên gia mang theo sơ đồ chính chiếc
đồng hồ về nước sau khi bàn giao một ngày. Buổi
chia tay không có lời hẹn gặp lại, chỉ có nước mắt,
tay trong tay cùng sự im lặng của hai bên. Từ hôm
16ấy, người phụ nữ rắn rỏi sinh ở ra ở Thái Bình đảm
trách đời sống chiếc đồng hồ này. Năm 2006, trước
khi nghỉ hưu, Bưu điện cho bà Yến đi du lịch Trung
Quốc, đến chỗ nào cũng ngó nghiêng tìm “người anh
em” cho chiếc đồng hồ mà bà gắn bó 28 năm nhưng vô
vọng. Khi xây dựng Nhà khách Chính phủ phía sau bưu
điện thì mặt hướng đông của đồng hồ đã bị công
trình này che lấp. Thiệt thòi cho người muốn xem
giờ từ phía đông đã đành, song điều đáng nói là đã
làm mất giá trị của chiếc đồng hồ. Trong tổ đồng hồ
còn có một nhân vật khá quan trọng, đó là ông Đào
Văn Dư. Ông Dư theo nghề sữa chữa và lắp ráp đồng
hồ từ năm 1960, ông là thợ duy nhất ở Hà Nội có tới
bảy bằng do các hãng danh tiếng cấp. Trước năm
1975, ông là giáo viên dạy nghề sửa chữa ở trường
17kỹ thuật đồng hồ (55 phố Hàng Bông). Khi đồng hồ
bưu điện khánh thành, ngành cho người đến mời ông
về làm thợ kỹ thuật. Vì cùng hệ thống với chiếc
đồng hồ bưu điện, đường dây còn truyền tín hiệu tới
bảy chiếc khác được lắp đặt tại bách hóa Tổng hợp,
chợ Hàng Da, chợ Mơ,... nên hàng ngày ông Dư phải
đạp xe đạp kiểm tra thời gian của chúng thế nào,
nhanh hay chậm.
Còn với bà Yến, do chẳng có gì làm chuẩn để biết
đồng hồ có chạy đúng theo giờ quốc tế nên thỉnh
thoảng bà lại đạp xe ra Nhà Thờ lớn để so. 28 năm
trông coi thì 20 năm, bà phải leo lên leo xuống cầu
thang cao chót vót vì thang máy không sử dụng
được. Rồi lúc nào cũng lo tra dầu mỡ, lo lấy giờ
cho chuẩn, chỉnh thanh đồng cho tiếng chuông trong
18hơn... Bà hiểu chiếc đồng không chỉ để xem giờ mà
nó đã trở thành biểu tượng của Hà Nội. Về hưu nhưng
hàng ngày bà vẫn giỏng tai nghe tiếng chuông, tuy
âm thanh không bao giờ vọng đến phố Khâm Thiên. Đến
hôm nay, mỗi khi có việc phải ra đường, bao giờ bà
cũng cố phóng xe máy qua Bờ Hồ để xem chiếc đồng
hồ mà bà gắn bó. Bà vẫn lưu tâm thông tin có chuyên
gia nào quay lại thăm chiếc đồng hồ do chính họ
lắp.
Trở lại với câu cửa miệng “Một chọi một lên cột
đồng hồ”, vậy thanh niên “tỷ thí” ở cột đồng hồ nào
vì Hà Nội có rất nhiều cột đồng hồ công cộng.
Trước khi khánh thành cầu Long Biên, đốc lý Pretre
Charles (giữ chức vụ này từ ngày 1-8-1901 đến
21-11-1901) cho lắp chiếc đồng hồ ngoài trời đầu
19tiên ở đầu phố Hàng Đậu, tiếp đó ở quảng trường
Đông Kinh nghĩa thục hiện nay, rồi Cửa Nam, cổng
Bảo tàng Lịch sử, ngã tư Sở... trừ chiếc đồng hồ ở
đầu Hàng Đậu là hai mặt tròn còn lại là ba mặt
vuông để mở rộng góc xem giờ. Không rõ đồng hồ do
hãng nào chế tạo nhưng tất cả đều là hai kim, số La
Mã và cứ hai ngày thì nhân viên bưu điện phải lên
dây một lần. Họ lắp tay quay vào bánh xe ở dưới
chân cột sau đó quay cho đến khi nào thấy căng thì
thôi. Từ sau 1954, an ninh trật tự rất nghiêm ngặt,
cứ có đánh nhau là dân đi báo công an và công an
bắt cả vào đồn. Cột đồng hồ đầu phố Hàng Đậu lúc
nào cũng đông đúc người qua lại và cạnh đó có bốt
công an gác cầu nên không bao giờ họ đánh nhau ở
đây. Địa điểm hẹn đánh nhau là cột đồng hồ trước
20Bảo tàng lịch sử, khu vực này không có nhà dân lại
thưa vắng người qua lại. Do hỏng hóc không có linh
kiện thay nên khoảng năm 1977, đồng hồ công cộng
này cùng nhiều chiếc khác bị dỡ bỏ. Đầu năm 2000,
có thông tin một người tên Thuần giữ hai chiếc còn
nguyên cả cột gang. Giới sưu tập đồng hồ truy tìm
nhưng không biết ông này ở đâu.
21