Chương 1 - Ngôi nhà Riddle
Dân làng Hangleton Nhỏ vẫn còn gọi đó là
“Ngôi Nhà Riddle “,mặc dù đã bao năm tháng trôi qua
kể từ thời gia đình Riddle còn sống ở đó. Ngôi nhà
nằm trên một đỉnh đồi ngó xuống làng , một số cửa
sổ đã bị bít lại bằng ván , ngói lợp mái thủng lỗ
chỗ , và dây trường xuân tự do mọc tràn lan khắp
mặt tiền nhà. Có một thời ngôi nhà đó từng là một
biệt thự xinh xắn , đứng cách đó cả dặm vẫn nhìn
thấy rõ. Đó cũng từng là ngôi nhà rộng lớn nhứt ,
sang trọng nhứt , nhưng giờ đây Ngôi Nhà Riddle
chỉ còn là một nơi điêu tàn , ẩm mục ,vô chủ ,
không người vãng lai.
1Dân làng Hangleton Nhỏ đầu nhất trí với
nhau rằng ngôi nhà cũ xưa ấy rất "rùng rợn".
Cách đây nửa thế kỉ , có một chuyện lạ lùng và
khủng khiếp đã xảy ra ở đó , một chuyện mà các bậc
tiền bối trong làng vẫn còn bàn tán mỗi khi cạn đề
tán gẫu. Câu chuyện đã được kể đi kể lại rất
nhiều lần , và đã được thêu dệt nhiều chỗ, đến nỗi
không còn ai dám chắc đâu là sự thật nữa. Tuy nhiên
, mọi phiên bản của câu chuyện đều cùng bắt đầu từ
một chỗ : năm năm về trước , thuở Ngôi Nhà Riddle
còn đang thời hưng thịnh , được chăm sóc kĩ lưỡng
, nguy nga lộng lẫy ; vào buổi bình minh của một
ngày đẹp trời , một cô hầu gái bước vào phòng khách
, và phát hiện ra cả ba người nhà Riddle đều đã
chết. Cô hầu gái vừa la vừa chạy xuống đồi để vô
2làng , đánh thức tất cả những người mà cô ta có thể
đánh thức được: "Nằm đó mắt mở trừng trừng !
Lạnh như băng ! Vẫn còn ăn mặc trịnh trọng ! "
Cảnh sát được gọi đến , và cả cái làng
Hangleton Nhỏ sôi sục lên đầy tọc mạch khích động
cùng vẻ hào hứng cố giấu mà không xong. Mà cũng
không ai hơi đâu giả bộ đau buồn thương tiếc gia
đình Riddle làm gì , bởi vì những người họ Riddle
không được ai ưa hết. Ông bà Riddle vốn giàu có ,
hợm hĩnh , bất lịch sự ; và người con trai đã lớn
của họ -Tom- nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ xấu xa
hơn thôi. Tất cả dân làng đều chỉ quan tâm đến lí
lịch của kẻ sát nhân , vì rõ ràng là ba người lớn
khoẻ mạnh cùi cụi đó không thể bỗng cùng lăn đùng
ra chết trong một đêm chỉ vì những nguyên nhân
3thông thường nào đó. Quán rượu Kẻ Chết Treo
đột nhiên buôn may bán đắt ngay đêm đó ; gần như cả
cái làng kéo nhau ra đó hết để bàn tán về bọn sát
nhân. Những kẻ chịu khó bỏ chỗ ngồi êm ấm bên lò
sưởi nhà mình để ra đây cuối cùng cũng được tưởng
thưởng khi bà bếp của nhà Riddle đột ngột đến nhập
bọn và tuyên bố cho cả cái quán chợt lặng trang
rằng một người đàn ông tên là Frank Bryce vừa mới
bị bắt.
Nhiều người cùng thốt lên :
"Frank hả ? Không đời nào ! "
Frank Bryce là người làm vườn của nhà
Riddle. Gã sống một mình ở căn chòi ọp ẹp trong sân
vườn của Ngôi nhà Riddle. Frank đã từ chiến
trường trở về với một cái chân què và sự chán ghét
4đám đông , ghét tiếng động ồn ào. Và gã đã làm
việc cho gia đình Riddle từ ấy. Mọi người bèn
xúm lại mua mấy thứ giải khát lạnh cho bà bếp để
nghe thêm chi tiết. Sau ly rượu ngọt thứ tư , bà
bếp nói với những dân làng đang háo hức lắng nghe
:
" Lúc nào tôi cũng thấy thằng cha đó quái
dị. Thiệt là thiếu thân thiện. Tui biết chắc là nếu
mà tui mời được thằng chả một lần thì tui đã mời
chả cả trăm lần rồi. Không đời nào chịu hòa nhập ,
thằng chả là vậy đó !"
Một người đàn bà ở quầy rượu nói :
" À, do vầy nè , anh ta đã trải qua một cuộc
chiến tranh tàn khốc , anh chàng Frank ấy. Anh ta
ưa đời sống yên tịnh. Chả có lí do nào để..."
5Bà bếp sửng cồ ngay :
" Vậy chứ còn ai khác có chìa khóa cửa sau
hử? Theo như tui nhớ thì có một chiếc chìa khóa sơ
cua treo trong căn chòi của người làm vườn ! Tối
hôm qua đâu có ai phá cửa vô nhà ! Cũng không có
cửa sổ nào bị đập bể hết ! Thằng cha Frank chỉ làm
có mỗi việc dễ ợt là rón rén đi lên Ngôi nhà
Riddle khi mà tất cả chúng ta đang ngủ..."
Dân làng đưa mắt trao đổi với nhau những
cái nhìn tăm tối. Một ông ngồi sau quầy bia càu
nhàu : " Tối luôn luôn nghĩ rằng thằng cha
đó có cái nhìn bẩn thỉu , đúng y như vậy." Ông
chủ quán nói :
"Theo ý tôi thì chính chiến tranh đã biến
đổi hắn thành kì cục. "
6Một bà sôi nổi ngồi ở góc phòng lên tiếng :
"Đã bảo anh rồi , nhớ không anh Dot , em
chẳng đời nào muốn sinh chuyện rắc rối với thằng
Frank đó. " Dot nhiệt liệt tán đồng :
" Nóng tánh dễ sợ. Tui nhớ hồi nó còn là một
đứa con nít...."
Đến sáng hôm sau thì hầu như không còn ai
trong làng Hangleton Nhỏ mà không tin rằng chính
Frank Bryce đã giết cả nhà Riddle.
Nhưng mà ở thị trấn lân cận Hangleton Lớn ,
trong trạm cảnh sát tối tăm và bẩn thỉu , Frank cứ
ngoan cố lặp đi lặp lai là gã vô tội , rằng kẻ duy
nhứt mà gã đã nhìn thấy gần Ngôi Nhà Riddle vào
cái ngày cả nhà này bị giết là một cậu bé xa lạ
mười mấy tuổi , tóc đen và màu da nhợt nhạt. Trong
7làng chưa ai từng nhìn thấy một cậu bé như vậy , và
cảnh sát yên chí là gã chỉ bịa ra thằng nhóc ấy mà
thôi. Thế rồi , vừa đúng lúc mọi chuyện trở
nên nghiêm trọng đối với Frank Bryce thì bản báo
cáo khám nghiệm tử thi của ba người nhà Riddle đến
và thay đổi mọi thứ. Cảnh sát chưa bao giờ đọc một
báo cáo nào kì quặc hơn. Một đội bác sĩ đã khám
nghiệm tử thi và kết luận rằng khong một người nào
trong ba người nhà Riddle chết vì ngộ độc. Cũng
như không chết vì bị đâm chém , bắn , bóp cổ , ngạt
hơi , hay (như người ta thấy được) bị đánh đập hay
tổn thương gì sất. Thật ra , ( bản báo cáo tiếp
tục bằng giọng văn ngơ ngác không nhầm vào đâu được
) , rằng những người nhà Riddle đều tỏ ra hoàn
toàn khoẻ mạnh - nếu không tính đến sự kiện rằng
8họ đã chết queo. Các ông bác sĩ có ghi chú ( như
thể quyết tâm tìm xem có gì trục trặc trên toàn bộ
các thi thể không ) rằng trên gương mặt của mỗi
người chết của nhà Riddle đều có một vẻ hãi
hùng....
Nhưng mấy ông cảnh sát nổi giận nói rằng
hồi nòa giờ có ai từng nghe nói có chuyện ba người
vì sợ mà phát chết được không?
Bởi vì không có chứng cớ nào cho thấy ba
người nhà Riddle bị ám sát , cảnh sát đành thả
Frank ra. Ba người nhà Riddle được chôn cất trong
nghĩa trang của làng Hangleton Nhỏ , và những ngôi
mộ của họ trở thành đối tượng hiếu kì trong suốt
một thời gian dài. Nhưng điều khiến mọi người ngạc
nhiên hết thảy là Frank , mặc dù bị bao phủ bởi đám
9mây mù ngờ vực , vẫn quay trở lại căn chòi của gã
trong sân vườn của Ngôi Nhà Riddle.
Trong quán Kẻ Chết Treo , Dot nói :
"Theo tui thấy thì chính thằng đó đã giết
họ , và tui cóc cần biết cành sát nói gì. Và nếu mà
thằng chả biết điề một chút xíu thì thằng chả nên
bỏ đi biệt xứ cho rồi , bởi vì thằng chả cũng phải
hiểu là chúng ta biết tỏng chuyện thằng chả làm
chớ." Nhưng Frank chẵng thèm bỏ đi đâu hết. Gã
cứ ở lại giữ vườn cho một gia đình khác dọn đến
Ngôi Nhà Riddle , rồi cho một gia đình khác
nữa...bởi vì chẵng có gia đình nào sống ở ngôi
nhàđó được lâu. Có lẽ một phần tại Frank mà mấy
chủ nhân mới đều nói là họ có một cảm giác khó chịu
về ngôi nhà. Còn ngôi nhà đó , từ khi không có
10người ở thì bắt đầu suy tàn , khong đwuocj sửa sang
nữa. Vào những ngày này , một người đàn ông
giàu có đến mua ngôi nhà, không phải để ở mà cũng
không dùng nó vào mục đích gì khác. Trong làng đồn
đại là ông ta giữ ngôi nhà đó "lý do thuế má " ,
mặc dù cũng không ai giải thích được rõ ràng như
vậy nghĩa là sao. Tuy nhiên , ông chủ giảu có tiếp
tục mướn Frank làm vườn. Bây giờ , Frank đã gần bảy
mươi bảy tuổi , rất lãng tai ,cái chân càng xi cà
que hơn bao giờ hết , nhưng lão vẫn đi rảo quanh
vườn hoa môi khi thời tiết tốt , cho dù cỏ đã bắt
đầu mọc lút đầu và lão thì cứ phải ráng hết sức để
đạp chúng bẹp dí xuống.
Cỏ không phải là thứ duy nhất mà lão Frank
phải dấu tranh chống chọi. Mấy thằng nhóc trong
11làng vẫn có thói quen quăng đá vô cửa sổ Ngôi Nhà
Riddle . Tụi nó cỡi xe đạp chạy nhong nhong qua
những bãi cỏ mà lão Frank đã vất vả chăm sóc cho
được mượt mà . Đã một hay hai lần gì đó, tụi nó còn
đột nhập vô trong nhà để mạo hiểm chơi. Biết lão
Frank tận tụy với ngôi nhà và khu vườn đến nỗi việc
trông nom ngôi nhà gần như là một ám ảnh của lão
cho nên tụi nhỏ lấy làm khoái lắm khi nhìn thấy lão
khập khiễng băng ngang khu vườn , quơ quơ cây gậy
và khào khào quát thét bọn nhóc . Về phần Frank ,
lão tin rằng mấy thằng nhóc hành hạ lão vì tụi nó,
cũng giống như ba má và ông bà tụi nó , tưởng rằng
lão là kẻ sát nhân. Vì vậy vào một đêm tháng tám ,
lão Frank thức dậy và thấy cái gì đó rất bất thường
phía trên ngôi nhà cũ xưa, thì lão cũng chỉ cho là
12lũ nhóc đã bạo gan đi xa hơn một bước trong cái
trò hành hạ lão.
Đúng ra là chính cái chân đau đã đánh thức
lão Frank . Khi tuỏi đã về già , cái chân làm lão
đau đớn hơn bao giờ hết. Lão thức dậy và đi khập
khiễng xuống cầu thang , vô nhà bếp ,định đong đày
chai nước nóng để chườm lên những chỗ đau trên đầu
gối của mình. Đứng bên bồn rửa chén , đổ đầy nước
vô ấm , lão ngó lên Ngôi Nhà Riddle và thấy ánh
sáng lập lòe bên trong cửa sổ trên lầu . Lão Frank
biết ngay chuyện gì đang xảy ra. Nhất định là lũ
nhõ đã lại đột nhập vô nhà một lần nữa, và căn cứ
vào bóng chập chờn của ánh sáng, lão chắc là tụi nó
đã thắp lên một ngọn lửa.
Lão Frank không có điện thoại , mà trong bất
13kể trường hợp nào thì lão cũng không thèm tin cậy
cảnh sát kể từ khi lão bị bắt để thẩm vấn về cái
chết của ba người nhà Riddle . Lão bèn đặt ngay ấm
nước xuống , vội vã lê đôi chân xì caf que của lão
lên cầu thang cho thật nhanh và ngay sau đó lại trở
xuống bếp , lúc này đã mặc thêm quần áo, lão lấy
cái chìa khóa cũ kỹ rỉ sét trên cái móc gần cửa ,
cầm lấy cây gậy đang dựng đứng dựa tường, và bắt
đầu bước đi trong đêm.
Cánh cửa trước của Ngôi Nhà Riddle không có
dấu hiệu gì chứng tỏ đã bị cạy, mấy cửa sổ cũng
vậy. Lão Frank đi cà nhắc vòng ra phía sau của ngôi
nhà, cho đến khi lão làm bít gần kín . Lão rút cái
chìa khóa ra, đút vô ổ khóa và mở cánh cửa êm ru .
14
Lão bứac vô một cái nhà bếp giống như cái
hang . Nhiều năm rồi lão Frank không hề bước chân
vào đay. Cho dù vậy, và mặc dù trong bếp rất tối ,
lão vẫn nhớ cánh cửa mở ra hành lang nằm ở đâu, và
lão dò dẫm đi về phía đó, mũi lão hít đầy mùi mốc
meo, tai lão giỏng lên nghe ngóng bất cứ tiếng
người và tiếng bước chân nào vang lên phía trên đầu
lão. Khi ra được tới hành lang , chỗ đó hơi sáng
nhờ ánh trăng sao rọi qua những khung cửa sổ lớn có
chấn song nằm hai bên cửa chính , lão bắt đầu leo
lên cầu thang, lòng cám ơn trời ban cho lớp bụi phủ
đầy trên các bậc thangbằng đá, bởi vì nhờ nó mà
tiếng bước chân và tiếng cây gậy của lão không đến
nỗi vang lên cồm cộp.
Khi lên tới đầu cầu thang, lão Frank quẹo
15phải , và nhận ra ngay nơi mà bọn đột nhập gia cư
đang tụ tập: ở cuối hành lang có một cánh cửa để hé
mở , xuyên qua khe hở là ánh lửa chập chờn , trải
mộ dải ánh sáng vàng trên sàn nhà đen thui . Lão
Frank mon men nhích lại gần hơn, tay nắm chặt cây
gậy . Còn cách lối vào nhiều bước , lão có thể ngó
thấy một thẻo phòng bên trong cánh cửa.
Cái mà lão thấy lúc này là lò sưởi đã được
nhóm lên trong vỉ lò. Lão ngạc nhiên quá. Lão bèn
ngừng bước và chăm chú lắng nghe, bởi vì có tiếng
đàn ông đang nói trong phòng nghe giọng rụt rè sợ
sệt:
“Thưa ngài, trong chai vẫn còn một chút, nếu
ngài còn thấy đói.”
Giọng thứ hai nói:
16“Để láy nữa”
Giọng này cũng là giọng đàn ông, nhưng có âm
sắc cao chói lói một cách lạnh lùng ,và lạnh lùng
như một luồng gió băng giá thình lình thổi tạt qua.
Có cái gì đó trong giọng nói đó làm cho mấy sợi
tóc hiếm hoi còn sót lại trên ót lão Frank dựng
đứng lên.
“Đuôi Trùn, chuyển ta đến gần lò sưởi hơn
nữa.” Lão Frank giỏng tai phải về phía cửa ,
tai phải của lão còn nghe được tàm tạm . Có tiếng
lanh canh của một cái chai được đặt xuống một bề
mặt cứng, và rồi tiếng cọt kẹt ngắc ngứ của một
chiếc ghế nặng nề được kéo lê trên sàn. Lão Frank
thoáng thấy một người đàn ông nhỏ thó đưa lưng về
phía cửa, đảy cái ghế đến vị trí cạnh lò sưởi .
17Người đàn ông đó khoác áo trùm dài màu đen , trên
đầu hắn có một mảng sói sọi . Rồi hắn lại đi ra
khỏi tầm nhìn của lão Frank.
Giọng lạnh lùng vang lên :
“Nagini đâu?”
Giọng nói đầu tiên nghe lo âu căng thẳng :
“Thưa ngài , tôi … tôi không biết . Tôi nghĩ
… chắc là nó đi thăm thính căn nhà…”
Giọng thứ hai nói :
“Đuôi Trùn , mi phải vắt sữa nó trước khi
chúng ta đi ngủ. Ta cần bồi dưỡng trong đêm. Cuộc
hành trình làm cho ta mệt quá.”
Lão Frank nhíu cả hai đầu chân mày khít lại,
giỏng cái tai còn lại còn nghe khá tới gần cánh
cửa hơn, hết sức chú ý lắng nghe. Yên lặng một lúc,
18rồi người đàn ông được gọi là Đuôi Trùn lại lên
tiếng :
“Thưa ngài, cho phép tôi hỏi chúng ta sẽ lưu
lại đây bao lâu ạ?”
Giọng lạnh lùng đáp :
“ Một tuần. Có thể lâu hơn. Chỗ này cũng khá
tiện nghi , và kế hoạch cũng chưa thể tiến hành
được . Hành động trước khi mùa Cúp Quidditch Thế
Giới kết thúc thì đúng là ngu. “
Lão Frank thọc một ngón tay co quắp vô lỗ
tai của lão để ngoáy. Chắc là tại vì có một cục ráy
tai tổ bố nào đó đã bít đường nghe , cho nên lão
nghe một từ gì lạ hoắc, chẳng có ý nghĩa gì cả:
“Quidditch”.
Đuôi Trùn nói:
19“Thưa ngài , mùa… mùa Cúp Quidditch Thế Giới
ạ?”
(Lão Frank ngáy ngón tay lão vô lỗ tai mạnh
hơn.) “Xin tha lỗi cho tôi, nhưng mà … tôi
không hiểu … tại sao chúng ta phải chờ cho đến khi
kết thúc mùa Cúp Quidditch Thế Giới ?”
“Bởi vì , đồ ngu à, vào lúc này phù thủy
khắp thế giới đang đổ về nước này, và cả đám bắng
nhắng ở Bộ Pháp Thuật đều trực chiến, canh phòng
mọi biểu hiện của bất cứ hoạt động bất thường nào,
kiểm tra tới kiểm tra lui căn cước. Chúng sẽ bị vấn
đề an ninh ám ảnh, phải làm sao cho dân Muggle
không hay biết gì hết. Vì vậy chúng ta phải đợi
thôi.”
Lão Frank thôi tìm cách ngoáy lỗ tai của
20lão. Lão đã nghe rõ ràng tiếng “ Bộ Pháp Thuật “,
“phù thủy”, và “Muggle “. Rõ ràng, mỗi câu chữ đều
có một ý nghĩa bí mật nào đó, và lão Frank chỉ có
thể nghĩ ra hai hạng người xài “mật mã” khi nói
chuyện với nhau, đó là gián điệp và bọn tội phạm.
Lão Frank lại một lần nữa nắm chặt cây gậy trong
tay, lắng nghe kỹ càng hơn nữa.
Đuôi Trùn nói nhỏ:
“Đức ngài vẫn còn quyết tâm?”
Trong giọng nói lạnh lùng bây giờ có thêm sự
đe dọa :
“Chắc chấn ta vẫn còn quyết tâm, Đuôi Trùn
ạ!” Sau câu nói này có một lúc yên lặng . Và
rồi Đuôi Trùn nói, lời lẽ lộn xộn nháo nhào tuôn ra
như thể hắn buộc mình phải nói ra điều đó trước
21khi mất hết can đảm:
“Có thể làm chuyện đó mà không dính tới
Harry Potter có được không , thưa ngài?”
Lại một lúc yên lặng nữa, kéo dài hơn, rồi …
giọng thứ hai vang lên thì thào trong hơi thở:
“Miễn cho Harry Potter hả…? Ta hiểu rồi…”
Giọng Đuôi Trùn cao lên nghe như tiếng chuột
kêu chít chít:
“Thưa ngài, tôi nói vậy không phải là vì tôi
lo nghĩ đến thằng nhỏ đâu! Thằng nhỏ đó chẳng là
cái gì đối với tôi cả, chẳng là gì cả! Chẳng qua là
nếu chúng ta dùng một phù thủy khác … bất cứ phù
thủy nào khác… thì nó sẽ được thanh toán nhanh hơn
nhiều! Nếu ngài cho phép tôi được rời xa ngài một
thời gian … Ngài cũng biết là tôi có thể tự ngụy
22trang hiệu quả nhứt… Tôi có thể quay trở lại đây
trong vòng hai ngày với một người phù hợp…”
Giọng lạnh lùng nói nhỏ nhẹ: “ Ta có thể xài
một tên phù thủy khác, điều đó đúng…”
Giọng của Đuôi Trùn bây giờ nghe như nhẹ
nhõm đi:
“Thưa ngài, như vậy khôn ngoan hơn. Đụng vô
Harry Potter sẽ khó khăn lắm, nó được bảo vệ kỹ
lắm…” “Và vì vậy nên mi xung phong đi tìm cho
ta một kẻ thế mạng chứ gì ? Ta tự hỏi… có lẽ công
việc bồi dưỡng ta đã làm cho mi chán ngán rồi phải
không , Đuôi Trùn ? Cái đề nghị hủy bỏ kế hoạch của
mi hóa ra chỉ là cố gắng của mi tìm cách bỏ rơi
ta, phải không ?”
“Thưa ngài, tôi … tôi không hề có ý muốn rời
23bỏ ngài đâu, không hề đâu ạ…”
“Đồ nói láo !”
Giọng thứ hai rít lên :
“Ta luôn luôn đi guốc trong bụng mi, Đuôi
Trùn à! Mi đang hối tiếc là mi đã trở về với ta chứ
gì! Ta khiến mi chán ghét hả? Ta thấy mi co rúm
người khi mi nhìn ta, cảm thấy rùng mình của mi khi
mi chạm vào ta…”
“Không! Sự tận tụy của tôi đối với Đức
ngài…” “Sự tận tụy của mi đối với ta chẳng
qua là sự hèn nhát. Nếu mi còn có chỗ nào khác để
dung thân thì mi đã chẳng tìm đến ta. Ta cần bồi
dưỡng vài giờ một lần, không có mi thì làm sao ta
tồn tại hả? Ai sẽ vắt sữa Nagini hả?”
“Nhưng thưa ngài… trông ngài khỏe mạnh hơn
24nhiều lắm rồi…”
“Nói láo!”
Giọng thứ hai thều thào :
“Ta chẳn khỏe mạnh chút nào, và mi mà bỏ mặc
ta chỉ trong vài ngày là ta sẽ kiệt quệ hết chút
sức lực mà ta đã gom lại được dưới sự chăm nom dở
ẹt của mi hôm nay. Im đi !”
Đuôi Trùn vừa lắp bắp mấy tiếng rời rạc
không nghĩa lý gì hết đã vội ngậm miệng lại ngay.
Trong vài giây, lão Frank không thể nghe được tiếng
gì nữa ngoại trừ tiếng củi lửa cháy bí bép trong
lò sưởi . Rồi người đàn ông thứ hai lại nói, bằng
giọng rít lên nghe gần như tiếng huýt gió:
“Ta có lý do để xài thằng nhỏ, như ta
đã giải thích cho mi rồi, và ta sẽ không xài
25ai khác cả. Ta đã chờ đợi mười ba năm. Chờ
thêm vài tháng nữa không sao hết. Riêng đối
với hàng rào bảo vệ chung quanh thằng nhỏ,
ta tin là kế hoạch của ta sẽ có hiệu quả.
Tất cả điều ta cần bây giờ chỉ là một chút
lòng can đảm của mi thôi, Đuôi Trùn à... Mi
phải tìm ra lòng can đảm đó, trừ khi mi muốn
lãnh đủ cơn thịnh nộ của Chúa tể Hắc ám
Voldemort ở mức độ tuyệt chiêu...”
Giọng Đuôi Trùn bây giờ đã trở nên kinh
hoảng: “Thưa Đức Ngài, xin cho tôi nói !
Trong suốt cuộc hành trình của chúng ta, tôi đã rà
lại kế hoạch trong đầu tôi… Thưa ngài, việc Bertha
Jorkin biến mất chẳng mấy chốc sẽ bị phát hiện ra
thôi, và nếu mà chúng ta tiếp tục, nếu tôi mà ám
26sát …”
Giọng thứ hai thì thầm:
“Nếu? Nếu à? Nếu mi theo đúng kế hoạch, thì
Đuôi Trùn à, Bộ Pháp Thuật sẽ không bao giờ cần
biết là ai chết nữa. Mi sẽ làm việc đó một cách êm
ru, không chút ồn ào nhặng xị; ta chỉ ước ao là
chính ta có thể làm việc đó, nhưng trong tình trạng
ta hiện nay… Đuôi Trùn , lại đây, chỉ cần trừ khử
thêm một chướng ngại vật nữa thôi là con đường
chúng ta đi tới Harry Potter sẽ quang đãng. Ta
không bắt mi phải hành động một mình. Đến thời điểm
thích hợp đó, tên đầy tớ trung thành của ta sẽ trở
về đầu phục ta…”
Đuôi Trùn nói, giọng rầu rĩ thảm hại:
“Tôi chính là tên đầy tớ trung thành của
27ngài đây.”
“Đuôi Trùn à, ta cần một kẻ nào đó có đầu
óc, một kẻ nào đó có lòng trung thành không bao giờ
giao động, mà mi thì rủi ro thay, chẳng đáp ứng
được cả hai yêu cầu đó.”
Đuôi Trùn nói, bây giờ trong giọng của hắn
lộ rõ vẻ chua chát hờn dỗi:
“Chính tôi đã tìm ra ngài. Tôi là người đã
tìm lại ngài. Tôi đã mang Bertha Jorkin đến cho
ngài.” Giọng nói thứ hai nghe có vẻ khoái
trá: “Điều đó đúng. Một sự thông minh đột
xuất mà ta không nghĩ ra là mi có thể có… Tuy
nhiên, nếu nói cho đúng sự thực, thì mi bắt cóc con
mụ đó, mi đâu có biết mụ ta hữu ích như thế nào
hả?”
28“Tôi… tôi cũng có nghĩ mụ ta có thể hữu ích
chứ… thưa Ngài…”
“Đồ nói láo!”
Giọng thứ hai lại thốt lên với sự thích thú
ác độc lồ lộ hơn bao giờ hết:
“Nhưng mà ta không chối rằng thông tin của
mụ ta là có giá trị. Nếu không có nó, chúng ta đâu
có vạch ra được kế hoạch này. Vì vậy mi sẽ được
thưởng, Đuôi Trùn à. Ta sẽ cho phép mi thực hiện
một công việc trọng yếu cho ta, một công việc mà
nhiều đồ đệ của ta sẵn sàng xung phong nhẫn lãnh…”
“Th… thiệt… hả, thưa Ngài? Công việc gì…?”
Giọng của Đuôi Trùn bây giờ lại đầy vẻ kinh
sợ. “À, Đuôi Trùn à, mi đâu có muốn ta làm
hỏng sự ngạc nhiên thú vị của mi hả? Vai trò của mi
29nằm ở giai đoạn cuối… nhưng mà ta hứu với mi, mi
sẽ được hưởng cái vinh dự là kẻ hữu ích, như Bertha
Jorkin vậy.”
Giọng của Đuôi Trùn bỗng trở nên khào khào,
như thể miệng hắn chợt khô đắng đi:
“Ngài… Ngài…Ngài… sẽ giết cả tôi nữa à?”
Cái giọng lạnh lùng lại trở nên mơn mớn:
“Đuôi Trùn ơi, Đuôi Trùn à, tại sao ta lại
phải giết mi kia chứ? Ta giết Bertha là bởi vì ta
cần phải làm như vậy. Sau khi ta tra hỏi mụ ta xong
thì mụ trở nên vô dụng hoàn toàn. Vả lại, nếu mụ
ta mà trở về Bộ Pháp Thuật với cái tin là mụ đã gặp
mi vào kỳ nghỉ hè, thì mụ lại bị họ vặn hỏi những
cây ngốc nghếch nữa. Mấy phù thủy đã bị coi như
chết rồi thì không nên đụng đầu với phù thủy của Bộ
30Pháp Thuật ở mấy cái quán ven đường…, biết không?”
Đuôi Trùn lầm bầm cái gì đó nhỏ đến nỗi lão
Frank không thể nghe lọt tai, nhưng mà cái điều đó
khiến cho người đàn ông thứ hai trong phòng phá lên
cười – một tiếng cười hoàn toàn bi thảm, lạnh lẽo
như giọng nói của y:
“Chúng ta có thể thay đổi ký ức của mụ ấy ư?
Nhưng Bùa Mê Ngải Lú có thể bị một pháp sư cao tay
ấn phá vỡ như chơi, như ta đã chứng minh khi ta
tra vấn mụ ta. Đuôi Trùn à, nếu không xài những
thông tin mà ta đã khai thác được ở mụ ấy thì quả
thiệt là xúc phạm đến ký ức của mụ.”
Ở ngoài hành lang, lão Frank chợt nhận thấy
bàn tay nắm chặt cây gậy của lão đã ướt đẫm và trơn
31nhớt mồ hôi. Thì ra gã đàn ông có giọng nói lạnh
lùng kia đã giết một người đàn bà. Hắn đang nói đến
chuyện đó mà không có một chút ăn năn hối hận gì
hết – mà còn có vẻ khoái trá nữa. Hắn thiệt là nguy
hiểm – một thằng điên. Và hắn lại đang lên kế
hoạch giết thêm nhiều người nữa. Cái thằng nhỏ
Harry Potter nào đó, chẳng biết là thằng nhỏ nào
nữa, đang bị nguy hiểm…
Lão Frank biết là lão phải làm gì. Bây giờ,
chính là lúc – nếu có lúc nào đáng làm thì chính là
lúc này – đi kêu cảnh sát. Lão tính sẽ lẻn ra khỏi
ngôi nhà Riddle và đi thẳng tới trạm điện thoại
công cộng trong làng… nhưng cái giọng lạnh lùng lại
vang lên, và lão Frank cứ đứng như phỗng tại chỗ,
cố hết sức giỏng tai lên mà nghe.
32“Thêm một tên nữa bị giết… tên đầy tớ trung
thành của ta ở trường Hogwarts …Đuôi Trùn à, Harry
Potter giỏi lắm thì cũng bằng ta là cùng thôi.
Chuyện đó ta đã quyết rồi. Sẽ không còn tranh cãi
gì nữa hết. Nhưng mà im coi… ta nghĩ ta nghe tiếng
con Nagini…”
Và giọng nói của người đàn ông thứ hai thay
đổi. Hắn bắt đầu phát ra những âm thanh mà lão
Frank cả đời chưa từng nghe thấy bao giờ. Hắn đang
rít lên như huýt gió và phun phì phì mà không cần
lấy hơi thở. Lão Frank nghĩ chắc là hắn đang lên
cơn động kinh gì đó.
Và rồi lão Frank nghe đằng sau lão có cái gì
đó đang chuyển động trong hành lang tối om. Lão
quay đầu lại dòm và cảm thấy mình tê liệt đi vì
33kinh hãi.
Có cái gì đó đang trườn về phía lão trên sàn
hành lang tăm tối, và khi nó trườn tới gần dải
sáng của ánh lửa lò sưởi hắt ra, lão hoảng kinh hồn
vía nhận ra đó là một con rắn khổng lồ, ít nhứt
cũng dài tới ba thước sáu. Hãi hùng, chết điếng,
lão Frank trừng mắt ngó thân hình dợn sóng của con
rắn quét một vệt rộng ngoằn ngoèo xuyên qua lớp bụi
dày trên sàn, đến càng lúc càng gần lão hơn… Lão
phải làm gì đây? Lối chạy trốn duy nhất là chạy
tuốt vô căn phòng mà hai người đàn ông kia đang mưu
tính chuyện sát nhân, nhưng nếu lão cứ đứng ỳ ra
tại chỗ thì chắc chắn con rắn sẽ giết lão…
Nhưng trước khi lão quyết định được phải làm
thế nào thì con rắn đã bò tới ngang chỗ của lão,
34và không thể tin được, con rắn bò qua, một cách
huyền bí lạ lùng. Con rắn bò theo tiếng huýt gió và
tiếng phun phì phì của người đàn ông có giọng nói
lạnh lùng ở bên trong cánh cửa, và chỉ vài giây
sau, cái đuôi đa giác hình viên kim cương của con
rắn biến mất sau khe cửa để hở.
Bây giờ thì mồ hôi đầm đìa trên trán lão
Frank, còn bàn tay cầm gậy của lão thì run bần bật.
Bên trong căn phòng, cái giọng lạnh lùng vẫn tiếp
tục rít lên và lão Frank chợt lóe lên một ý tưởng
lạ lùng, một ý nghĩ không thể nào có nổi… Gã đàn
ông đó có thể nói chuyện với rắn.
Lão Frank không hiểu chuyện gì đang diễn ra.
Điều lão mong muốn hơn hết thảy mọi thứ lúc này là
được trở về cái giường của mình với chai nước nóng
35để chườm cái chân đau. Vấn đề là cái chân lão đứng
đó run rẩy, tìm cách làm chủ lấy bản thân mình,
thì cái giọng lạnh lùng đang nói tiếng rắn ấy đột
ngột chuyển sang tiếng Anh:
“Đuôi Trùn , Nagini có một tin thú vị đây.”
Đuôi Trùn hỏi : “Thực … sao, thưa ngài?”
Giọng lạnh lùng ấy trả lời:
“Ừ, thực vậy. Theo như Nagini thì có một lão
Muggle đang đứng ngay ở ngoài cửa phòng này, rình
nghe hết từng lời chúng ta nói.”
Lão Frank chẳng còn cơ hội nào để núp vô đâu
nữa. Tiếng bước chân vang lên, và rồi cánh cửa
phòng bật mở rộng.
Một gã đàn ông nhỏ thó, hói đầu, tóc lưa
thưa màu xám, mũi nhọn và nhỏ, mắt mọng nước , đứng
36ngay trước mặt lão Frank, trên mặt hắn lẫn lộn nỗi
sợ hãi với vẻ cảnh giác.
“Mời hắn vô trong này coi, Đuôi Trùn . Phép
lịch sự của mi để đâu hả?”
Giọng nói lạnh lùng vang lên từ chiếc ghế
bành cổ xưa đặt trước lò sưởi, nhưng lão Frank
không thể nhìn thấy người đang nói. Con rắn, mặt
khác, thì đã cuộn tròn trên tấm thảm rách mướp bẩn
thỉu, trông như thể nhại theo phong cách một con
chó cưng.
Đuôi Trùn vẫy tay ra hiệu cho lão Frank bước
vào phòng. Mặc dù vẫn còn run lập cập, lão Frank
nắm chặt lấy cây gậy, bước khập khiễng qua ngưỡng
cửa. Ngọn lửa lò sưởi là nguồn ánh sáng duy
nhứt trong căn phòng – hắt những cái bóng dài lằng
37ngoằng lên tường. Lão Frank đăm đăm nhìn vào lưng
cái ghế bành; gã đàn ông ngồi lọt thỏm trong cái
ghế đó dường như còn nhỏ hơn cả tên đầy tớ Đuôi
Trùn của hắn, bởi vì lão Frank chẳng nhìn thấy được
cái đầu của hắn đâu, chỉ nghe giọng lạnh lùng vang
lên :
“Mi nghe hết mọi chuyện rồi hả, tên Muggle
kia?” “Ông gọi tôi là gì hả?”
Lão Frank đáp, giọng thách thức, bởi vì đằng
nào thì lão cũng đã vô tận trong phòng rồi, và bây
giờ là lúc phải hành động, bất kể là hành động gì.
Lão bỗng cảm thấy can đảm hơn; hồi trong chiến
tranh lão luôn cảm thấy như vậy.
Cái giọng của gã đàn ông ngồi trong ghế bành
trở nên mát mẻ:
38“Ta gọi mi là một Muggle , có nghĩa mi không
phải là một pháp sư.”
Giọng lão Frank tăng thêm phần rắn rỏi:
“Tôi không biết ông nói pháp sư là ông định
nói cái gì. Tôi chỉ hiểu là những gì tôi đã nghe
đêm nay đủ đẻ làm cho cảnh sát quan tâm. Ông đã
giết người và ông đang mưu toan giết thêm người
nữa! Và tôi cũng phải nói cho ông biết điều này…”
Giọng lão đột ngột hăng lên khi lão nói thêm
:
“Vợ tôi biết tôi đến đây, và nếu tôi không
trở về…”
Cái giọng lạnh lùng thản nhiên ngắt ngang
lời lão:
“Mi không có vợ. Không ai biết mi ở đây. Mi
39không nói cho ai biết mi đến đây. Tên Muggle kia,
đừng có nói láo với Chúa tể Hắc ám Voldemort ,
bởi vì ngài biết … Ngài luôn luôn biết…”
Lão Frank thô lỗ :
“Có đúng không đó? Chúa tể cơ à? Chà, tôi
thì không lấy phong thái lịch sự làm điều đâu, thưa
ngài. Nhưng tại sao ông không quay mặt lại đối
diện với tôi như một con người nhỉ?”
“Nhưng ta không phải là một con người , đồ
Muggle ạ.”
Giọng nói lạnh lùng vang lên nhưng rất khó
nghe trong tiếng củi lửa cháy lách tách:
“Ta hơn hẳn, hơn hẳn một con người. Tuy
nhiên … sao lại không? Ta sẽ đối diện với mi… Đuôi
Trùn , đến đây xoay ghế lại cho ta.”
40Tên đầy tớ rên rỉ.
“Có nghe ta bảo không, Đuôi Trùn ?”
Với gương mặt dúm dó, gã đầy tớ làm như thể
hắn thà làm bất cứ cái gì còn hơn là phải đến gần
ông chủ của hắn và cái thảm lót nền lò sưởi chỗ con
rắn đang nằm. Gã đàn ông nhỏ thó đó bước chậm chạp
tới trước và xoay cái ghế lại. Con rắn ngóc cái
đầy hình tam giác xấu xí và huýt gió khe khẽ khi
mấy cái chân ghế làm đùn tấm thảm của nó.
Và rồi cái ghế lại được xoay ra đôi diện với
lão Frank. Lão nhìn thấy cái đang ngồi trên ghế.
Cây gậy rơi khỏi tay lão rớt xuống sàn kêu cành
cạch. Lão há miệng ra, thốt lên một tiếng thét. Lão
thét to đến nỗi lão không nghe được mấy lời thần
chú mà cái vật ngồi trong ghế lẩm bẩm khi giơ cây
41đũa phép lên. Một làn ánh sáng xanh lè nhá lên, một
tiếng đổ ụp xuống, và lão Frank ngã gục trên sàn.
Lão chết trước cả khi thân thể lão chạm tới sàn
nhà.
Cách đó hai trăm dặm, một thằng bé tên là
Harry Potter giật mình thức giấc.
42