HỌC TRÒ THIÊN MỖ
Ngày xưa , từ thời Vĩnh Trị, ở làng Thiên Mỗ ( nay
là Đại Mỗ - Từ Liêm, Hà Nội ) có một câu bé tên là
Nguyễn Quý Đức, nổi tiếng văn hay chữ tốt. Một hôm
sau buổi học sáng về quán nước dọc đường cái, Đức
ghé vào chơi. Chợt có ông Huyện đi qua cũng ghé vào
nghỉ
Ông huyên thấy Đức còn để chỏm, mặt mũi sáng sủa,
bèn hỏi rằng:
- Cậu đang cắp sách đi học, vậy đã học sách gì rồi
?
Đức đáp đã học hết sách Luận ngữ. Ông Huyện liền
ra một vế câu đối, dùng toàn chữ của Luận ngữ;
- Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí.
( ăn không cần no, ở không cần yên, say đạo học
1đúng chí quân tử )
Đức ứng khẩu đối ngay, cũng dùng toàn chữ Luận ngữ
- Chiêu nhi bất lai, huy nhi bất khứ, xã tắc thần.
( vẫy không chịu lại, xua không chịu đi, phò xã
tắc, đáng mặt bề tôi. )
Ông huyện rất kinh ngạc không ngớt lời khen ngợi
cậu học trò còn bé mà đã có chí lớn.
Lại một hôm nhằm ngày nghỉ học, quý Đức đi chăn
trâu, chẳng dè mải chơi để trâu xổng xuống phá một
đám ruộng trồng khoai của làng Cầu Đỏ.
Gặp khi có một ông Phủ đi qua thấy vậy liền sai
lính bắt trâu. Đến chiều, cha mẹ bắt Đức đến phủ
xin trâu về. Đức đang đọc sách liền tiện tay cầm
theo vừa đi vừa đọc. Đến Phủ, quan phủ thấy vậy hỏi
có đi học không ? Đức đáp đang đi học. Ông Phủ
2nheo mắt nói
- Thế thì hay lắm! bây giờ ta ra một vế đối, nếu
mà đối được thì tha trâu, nếu không đối được ta bắt
cả trâu lẫn người. Rồi đọc rằng:
- "Khoai Đơ xanh tốt nhờ về Phủ "
Đức nghe xong đối luôn:
- Lĩnh Mễ vàng trơn bởi có Nghè
Ông Phủ thấy đối nhanh, văn Nôm cũng giỏi, lại có
khẩu khí hơn người, liền gọi lính đem trả trâu cho
cậu và tỏ vẻ quý mến lắm.
Câu đối Nôm này vẫn được truyền tụng ở địa phương
vì nó rất hay, nôm na dễ hiểu mà lại chơi chữ rất
khéo. Chữ "phủ" ở vế trên có hai nghĩa : "Phủ" là
dùng rơm rạ rải lên trên gốc những cây khoai sọ để
giữ độ ẩm thì khoai Đơ mới xanh tốt, mới ngon bùi.
3Đặc sản " khoai Đơ Bùi - mùi Kẻ Láng " . Nhưng
"phủ" lại có nghĩ là quan tri phủ.
Còn chữ " nghè " ở vế dưới cũng có hai nghĩa. "
nghè là lấy chày nện tấm lĩnh cho nó min màng mà
trơn bóng mới có những tấm lĩnh đẹp nổi tiếng "
Lĩnh Mỗ ". Làng Đại Mỗ từ xưa vẫn có nghề dệt lĩnh
cổ truyền, đặc sản lĩnh trơn, còn đặc sản lĩnh bưởi
là lĩnh hoa. Nhưng chữ "nghè" lại còn có nghĩa là
ông nghè - tiến sỹ. Ông phủ khen Đức bé mà có chí
hơn người chính là ở chữ "nghè", có chí học hành đỗ
đạt cao.
Có người lại kể rằng, thuở trẻ, Nguyễn Quý Đức đi
học ở kinh đô Thăng Long, khi có việc thường hay
qua lại làng Mậu Lương, Đa Sĩ, tục gọi là Kẻ Đơ
thuộc phủ Quốc Oai và quan phủ nói trên là quan phủ
4Quốc Oai.
Cậu học trò Thiên Mỗ Nguyễn Quý Đức về sau quả
nhiên đã đỗ ông Nghè- ông Thám- làm quan đến chức
Tể tướng triều Lê.
Đến nay , dân gian vẫn truyền tụng về tài xử kiện
của ông:
Hàng năm cứ vào ngày mồng sáu tháng giêng lại có
phiên chợ La Cả - cách chợ Mỗ chừng hai dặm đường.
Con đường ấy có một đoạn gần chợ Mỗ sát bờ ao nên
hay phải lội.
Một hôm, phiên chợ La vừa tan, có một ông thầy bói
và một anh hàng thịt cùng đi về Mỗ. Đến quãng lội
ấy, ông thầy bói nhờ anh hàng thịt cõng giúp qua.
Trong lúc anh ta đang dò dẫm từng bước lội cho khỏi
ngã, thì anh thầy bói ranh ma, thò tay vào bị anh
5hàng thịt đang đeo trên vai rút lấy quan tiền rồi
kêu toáng lên là " ăn cướp, ăn cướp ". Anh hàng
thịt cũng kêu theo " Cướp, Cướp " . hai bên cùng
kêu toáng cả lên. Dân làng chạy ra, ai cũng bảo chỉ
có anh lành lấy của anh mù chứ lẽ đâu anh mù lại
cướp của anh lành được. Hai phe tranh cãi chảng ai
chịu ai, bèn kéo đến trình quan Thám Nguyễn Quý
Đức. Ngài sai người đun một nồi nước sôi mang lên.
Mọi người ngơ ngác không hiểu để làm gì? Bỗng thấy
ngài cầm quan tiền ném vào nồi nước sôi, lập tức
thấy mỡ nổi lên. Bấy giờ mọi người mới hiểu ra,
đích thị quan tiền là của anh hàng thịt. Lão thầy
bói tái mặt vội thú nhận ngay là hôm nay ế , không
ai bói nên mới làm bậy, lạy ngài tha cho. Ngài trả
quan tiền cho anh hàng thịt rồi cho lão thày bói
6hai đồng kẽm mà bảo rằng: Từ nay phải bỏ cái tính
xấu ấy đi./.
Phạm Hòa
7