PHẦN 2 - LỊCH SỬ HOA KỲ - NHỮNG VẤN ĐỀ QUÁ KHỨ
Tác giả: Irwin Unger
Người dịch: Nguyễn Kim Dân
Chương 10
Nền dân chủ của những người theo Jackson
ĐÓ LÀ GÌ VÀ NÓ TẠO NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ CHÍNH TRỊ NHƯ
THẾ NÀO?
1810 Người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha ở Tây Florida
“nổi loạn”; nước Mỹ công bố phần đất là một phần
của bang Louisiana Purchase; Fletcher tranh chấp
với Peck.
1812 James Madison tái đắc cử Tổng thống.
1816 Quốc Hội Mỹ liên kết với Ngân hàng thứ hai
của Mỹ (BUS); Lần đầu tiên lập bộ thuế bảo vệ nền
công nghiệp nước Mỹ khỏi những kẻ cạnh tranh nước
1ngoài; James Monroe được bầu Tổng thống.
1818 Andrew Jackson bố ráp những người Tây Ban Nha
ở Florida.
1819 Trường đại học Dartmouth tranh chấp với
Woodward; McCulloch tranh chấp với Mary-land; Hiệp
ước Adams-Onis với Tây Ban Nha.
1821 Cohens tranh chấp với Virgina.
1823 Học thuyết Monroe được công bố.
1824 “Chế độ Mỹ quốc” của Henry Clay trở thành bản
tuyên ngôn của Đảng Whigs; John Quincy Adams được
Hạ nghị viện bầu làm Tổng thống và những người ủng
hộ Jackson nghi ngờ “một cuộc thương lượng tồi tệ”.
1828 Quốc hội thông qua “Bộ luật thuế bẩn thỉu”;
John Calhoun viết bài bình luận và kháng nghị;
2Andrew đắc cử Tổng thống.
1830 Đạo luật tẩy chay người Da đỏ.
1832 Luật thuế 1828 chỉ giảm nhẹ không đáng kể;
Nam Carolina tuyên bố luật thuế mới không có giá
trị; Worcester chống lại việc Georgia ủng hộ những
yêu sách cho vùng đất của người Cherokee; Jackson
bác bỏ dự luật đổi mới đặc quyền cho BUS; Jackson
không tán thành việc chính quyền ký thác tiền gửi
từ BUS.
1832-34 Biddle cắt giảm những yêu cầu vay mượn
trong BUS.
1833 Quốc hội thông qua Dự luật vũ trang; Nam
Carolina tán thành một bộ thuế thỏa thuận nhưng
không công nhận Dự luật vũ trang.
1835-42 Người Seminole ở Florida chống cự bằng vũ
3lực việc tẩy chay của miền Tây. 1836 Jackson phát
hành tiền đồng kim loại; Martin Van Buren đắc cử
Tổng thống. 1838 Người Cherokee rời khỏi Georgia vì
Oklahoma trên “đường mòn của nước mắt”. 1840
William H. Harrison của Đảng Whigs đắc cử Tổng
thống.
Ngày 4-3-1829 là một ngày sôi động ở Washington.
Andrew Jackson được bầu là vị Tổng thống thứ 7 của
nước Mỹ, nhiều cựu cư dân của thành phố đang gói
ghém hành lý và chuẩn bị rời khỏi nơi cư trú mới từ
nhiều tuần qua. Đối với Magaret Smith, nữ phát
thanh viên thanh lịch, người chủ trì chương trình
xã hội Washington hơn 20 năm qua, thì sự thay đổi
là một thảm kịch. “Trước kia, chưa bao giờ thành
phố… ảm đạm đến như vậy”, cô viết. “Những phòng
4tranh mà tôi thường hòa lẫn với đám đông thanh
niên, không phân biệt chức vị, thời trang, thanh
lịch, tài năng,… giờ đây trống rỗng, lặng im, lạnh
ngắt, trần trụi. Ôi! Thật đáng buồn!”
Trong khi cái tĩnh lặng nguyên sơ của thành phố
đang biến đi trên sông Potomac, những hoạt động
khác vẫn sôi động. Thành phố tràn ngập du khách,
các khách sạn quá tải. Cứ mỗi bốn năm, Washington
phải chịu đựng làn sóng người dân nhập cư mới, dĩ
nhiên, nhưng thời gian này, nhiều người trong số họ
cũng đã có nhiều khác biệt. Bên cạnh các chức sắc
Giáo hội và các viên chức với áo choàng dài bình
thường, nhiều người đàn ông dáng vẻ thô kệch mặc áo
sơ mi da, mũ da gấu, giọng nói không có những âm
sắc trầm bổng như người Ailen, đi dạo trên đường
5phố thủ đô. Đám đông dù vui đùa và rất khôi hài
nhưng cũng rất kiên quyết. Theo Bà Smith, mỗi gương
mặt đều “mang nặng vẻ thách thức”. Bà viết cho một
Thượng nghị sĩ mới từ Massachusetts, ông Daniel
Webster: “Trước kia tôi chưa bao giờ thấy điều này.
Dường như họ thực sự nghĩ rằng đất nước đã thoát
khỏi điều nguy hiểm khủng khiếp nào đó”.
Tính kiên quyết của những người nhập cư mới là
điều có thể hiểu được. 14 năm qua – kể từ chiến
thắng vang dội của họ ở New Orleans – những người
thán phục Andy Jack- son đã làm việc rất cần mẫn
cho vị Tổng thống anh hùng của họ. Ông là một người
lãnh đạo có uy tín về chính trị nhất của
Washington: tính thẳng thắn, nhã nhặn và duyên
dáng, cộng với vóc dáng của một vị chỉ huy quân sự
6luôn là những vốn quý cho địa vị lãnh đạo chính trị
của ông. Nhưng có phải sự kính trọng đối với vị
anh hùng là lý do duy nhất của tình trạng kích động
trong thành phố không? Hay có nhiều cá nhân trung
thành nấp sau các lực lượng chống đối? Hoặc điều gì
đó quan trọng đang diễn ra? Có phải cuộc tuyển cử
Cựu Hickory gây ra sự khác biệt với cách vận hành
của đất nước? Có phải nó đã mang đến những nhóm
quyền lực mới cùng những ý tưởng và chương trình
mới? Rõ ràng Webster và bà Smith tin rằng họ đang
là nhân chứng cho một số hình thức đổi mới. Vậy
những người đàn ông thô kệch đi lang thang trên
đường phố thủ đô đã làm gì trong tuần lễ tháng 3
năm 1829 đó? Có phải họ thuộc cánh hữu? Có phải đã
có những thay đổi chính yếu về chính trị? Và nếu
7vậy, đó là cái gì? Để trả lời những câu hỏi này,
trước tiên chúng ta hãy nhìn vào kỷ nguyên trước
cuộc tuyển cử Jackson.
KỶ NGUYÊN CỦA NHỮNG CẢM NHẬN TỐT ĐẸP
Năm 1817, khi James Monroe được bầu làm Tổng thống
thứ năm, “chế độ đảng phái đầu tiên” đã hoạt động
theo cách của nó. Những đánh giá sai lệch cho rằng
các tổ chức của Đảng liên bang đã đánh cuộc và nắm
chắc phần thắng về những quyết định sai lầm trong
cuộc chiến 1812, cùng với bản kháng nghị hạn hẹp
mang tư tưởng quý tộc, hầu như họ đã bị hủy diệt vì
một thế lực chính trị quan trọng. Mặc dù các tổ
chức của Đảng liên bang vẫn là thế lực quan trọng ở
New England, Delaware và một số nơi khác, đảng
phái của Washington, Hamilton và John Adams không
8bao giờ tìm lại được sự chống đối chế độ Dân chủ
trong một cuộc tuyển cử quốc gia.
Tuy nhiên, những nguyên tắc của Đảng liên bang vẫn
tồn tại. Như chúng ta đã thấy ở chương 8, trong
cuộc chiến 1812, chế độ Dân chủ đã hiểu được giá
trị của ngân hàng, đường phố và quyền tự quyết của
quốc gia: năm 1815, Tổng thống Madison đòi hỏi một
ngân hàng quốc gia mới, một mức thuế bảo hộ và một
cuộc cách tân nội bộ. Trong Quốc hội, Henry Clay,
John C. Calhoun thuộc Nam Caro-lina và những người
khác thuộc “Đảng Dân chủ mới” đã học được bài học
từ Halmilton trong việc ủng hộ Tổng thống. Madison
đã được thỏa mãn hầu hết các yêu cầu mà không gặp
một sự đối kháng nào nghiêm trọng. Tháng 4 năm
1816, Quốc hội phê duyệt một tiêu chuẩn để kết hợp
9Ngân hàng thứ hai của Mỹ với một ngân hàng tư bản
lớn hơn cả tiền nhiệm của nó. Vài tuần sau nó đã áp
dụng luật thuế của năm 1816, lần đầu tiên bảo vệ
quyền sản xuất của người Mỹ, chống bán phá giá và
tác động rất lớn đến nền công nghiệp của các nước
châu Âu. Đầu năm sau, Quốc hội chấp thuận lời giới
thiệu của vị Tổng thống thứ ba bằng cách ban hành
một dự luật chủ yếu để cách tân nội bộ.
Với đường lối của các tổ chức liên bang, những
căng thẳng trong hệ tư tưởng đã sụp đổ. Có vẻ giống
như lời tiên đoán của Jefferson năm 1801: “Tất cả
chúng ta ủng hộ chế độ Dân chủ. Tất cả chúng ta ủng
hộ tổ chức liên bang”. Chắc chắn những nguyên tắc
của Hamilton được Đảng Dân chủ thông qua sẽ chấm
dứt những bất đồng về chính trị đầy cay đắng của
10giai đoạn 1790 – 1815.
Các sử gia đã đặt tên cho thập niên sau cuộc chiến
1812 là Kỷ nguyên của những cảm nhận tốt đẹp. Đây
là một cụm từ bình thường nếu chúng ta chỉ xem xét
đến sự bình yên trong cuộc bầu cử Tổng thống, những
cuộc tranh cãi nhưng không có xung đột của các
đảng phái cùng với những hệ tư tưởng rõ ràng. Nó là
một thuật ngữ sai nếu chúng ta quan tâm đến ý
nghĩa mà những kình địch về chính trị đã gây ra.
Trong những năm này, các bất đồng về chính trị vẫn
tiếp tục xảy ra, nhưng chúng đã biến dạng thành
hình thái xung đột nội bộ và cá nhân, giống như
thời thuộc địa. Bang nào cũng có những cuộc chiến
liên tục xảy ra giữa những người thuộc Đảng Dân chủ
của Jefferson và các phe nhóm khác. Ở New York,
11những người theo De Witt Clinton, được sự bảo trợ
của Erie Canal, và Martin Van Buren, lãnh đạo của
phe nhiếp chính Albany, liên tục đấu tranh với
những người đang nắm chính quyền. Những nhóm kình
địch ở Ohio thuộc cả hai cánh đều tự gọi mình là
người thuộc Đảng Dân chủ, quy tụ thành một tổ chức
dưới trướng của James Galay và tướng William Henry
Harison Na-tionally. Những đảng phái chính trị khác
thì trông chờ vào sự lãnh đạo của Calhoun, Clay,
Jonh Quincy Adam, hoặc thượng nghị sĩ Wil-liam H.
Crawford của Georgia. Nhưng không ai trong số những
người này có khả năng khơi dậy sự nhiệt tình mạnh
mẽ trong những cử tri. Hơn nữa, những vấn đề đang
được tranh cãi đều rất mơ hồ – cho dù đó là những
vấn đề quan trọng hơn hết. Sự thờ ơ của cộng đồng
12đã lan rộng và số lá phiếu thu được trong các cuộc
bầu cử ở khắp nơi đều thấp.
Dĩ nhiên, những cuộc bầu cử quốc gia vẫn tiếp tục,
nhưng chúng chỉ công nhận sự chọn lựa của các lãnh
đạo thuộc Đảng Dân chủ. Ở cấp độ cao nhất, “King
Caucus” đã quyết định ai sẽ là Tổng thống. Mỗi
nhiệm kỳ 4 năm, các lãnh đạo phe Dân chủ trong Quốc
hội đều “họp kín” với nhau và chỉ định các ứng
viên cho Đảng – cuối cùng sự chọn lựa của họ được
CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỦA JACKSON
Vợ của một giám đốc ngân hàng ở Washington, bà
Mar-garet Bayard Smith là người biên tập và là một
chính khách theo phe Jefferson, đã chứng kiến sự
chuyển tiếp từ triều đại Virginia đến thời đại của
Jackson. Với óc nhận xét sắc bén về chính trị vì nó
13đã suy tàn trong nội bộ quốc gia đầu thế kỷ 19, bà
đã ghi lại những ấn tượng của mình trong những lá
thư gửi cho bạn bè và gia đình, sau đó được thu
thập lại thành tác phẩm 40 năm đầu tiên của xã hội
Washington. Phần sau được trích dẫn từ tác phẩm
này, miêu tả Ngày nhậm chức năm 1829, khi người
“anh hùng dân tộc” Andy Jackson trở thành Tổng
thống nước Mỹ, đánh dấu sự khởi đầu cho một thời
đại dân chủ mới. Rõ ràng đó là một thời đại không
làm bà Smith hoàn toàn hài lòng, bà đã không dùng
đến lối văn hoa phóng túng kiểu Mỹ của quần chúng
để ca ngợi ngày hôm đó.
“Nghi lễ chào mừng quốc gia được mở màn sáng sớm
ngày 4 tháng 3. Khoảng 10 giờ, Đại lộ đầy nghẹt các
chuyến xe với đủ mọi loại người, từ những cỗ xe
14ngựa bốn bánh nguy nga tráng lệ đến các cỗ xe bò,
ngựa hai bánh chở đầy phụ nữ và trẻ em, một số còn
tốt, một số quá tồi tàn, vì vị Tổng thống của nhân
dân, và tất cả đều trông chờ vào ông… Một người nào
đó đến nói với chúng tôi rằng đám đông trước cửa
nhà Tổng thống, đến giờ đã giảm bớt, họ đều nghĩ
rằng chúng tôi sẽ bước vào. Lúc này chúng tôi đã
thực hiện được mục đích của mình, nhưng những gì
chúng tôi chứng kiến thật kinh khủng làm sao! Vị
Hoàng đế của dân tộc đã không xuất hiện, và đám
tiện dân, bọn du thủ du thực, đám thanh niên, người
da đen, phụ nữ, trẻ em đang la hét, đánh nhau, hỗn
loạn. Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc! Không có tổ
chức, không có cảnh sát làm nhiệm vụ, toàn bộ ngôi
nhà đang ngập tràn đám tiện dân. Chúng tôi cũng đến
15trễ. Ngài Tổng thống, theo đúng nghĩa đen, sau khi
bị chèn ép và gần như đã nghẹt thở, đã nhỏ vài
giọt nước mắt vì sự nồng nhiệt của người dân và đến
bắt tay với Cựu Hickory, sau đó rút lui qua cửa
sau hoặc cửa miền Nam và trốn khỏi phòng của mình ở
Gadsby. Những tấm kính hoa văn và đồ sứ trị giá
hàng ngàn đô la đã vỡ tan trong cuộc hỗn loạn vì sự
phấn khích…. Rượu Punch và các loại khác được mang
ra từ các chậu, xô, nhưng các thùng lớn dường như
vẫn chưa đủ… Họ mang thêm nước đá, bánh ngọt, và
nước ngọt cho 20.000 người, con số đó tôi nghĩ chỉ
là sự ước lượng được cường điệu hóa. Nhiều phụ nữ
ngất xỉu, đàn ông chảy máu mũi và không có một ngôn
từ nào có thể diễn tả nổi một cảnh tượng hỗn loạn
như thế – chưa kể đến những người không thể ra
16ngoài bằng cửa chính và phải bò qua cửa sổ. Trước
đó, ngài Tổng thống, người chỉ có rút lui và rút
lui, cho đến khi bị ép vào sát tường, chỉ có thể
được an toàn bởi một một số nhà quý tộc bao quanh
ngài và tạo một rào chắn bằng chính thân mình họ,
áp lực quá lớn đến nỗi Col Bomford phải nói rằng
ông sợ một lúc nào đó họ sẽ xô ngã hoặc đè lên ngài
Tổng thống. Vì vậy những cửa sổ được mở ra, đám
hỗn loạn tìm được đường thoát ra, chuyện này cũng
có thể gây tai họa.
Sự tụ tập này là chuyện không lường trước và không
được chuẩn bị chu đáo. Những quý bà và quý ông chỉ
trông đợi trong các buổi chiêu đãi, không phải
trong đám đông quần chúng. Nhưng đó là Ngày của Dân
tộc, Tổng thống của Dân tộc và Dân tộc có quyền.
17Chúa phán rằng ngày nay hay ngày khác, người dân sẽ
không bị tước bỏ hết những quyền hành và những
người cai trị…”. phê chuẩn chính xác bởi các cử
tri. Để giảm bớt và thu gọn các vấn đề, các cuộc
họp kín của lãnh đạo thường chọn hoặc là người
đương nhiệm, nếu ông ta chưa phục vụ hết hai nhiệm
kỳ, hoặc bộ trưởng của ông ta. Như thế, Bộ trưởng
Madison sẽ kế tục Jefferson, Bộ trưởng Monroe kế
tục Madison, và Bộ trưởng John Quincy Adams sẽ kế
tục Monroe. Để hoàn thành tốt đẹp toàn bộ mọi việc,
bốn trong sáu vị Tổng thống đều là người Virginia,
hai người khác từ Massachusetts. Với sự chọn lựa
có phần xác thực như vậy thì chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi những cử tri tham gia bầu cử đã phản đối
gay gắt như thế.
18Triều đại Virginia. Các Tổng thống từ Jefferson
đến Monroe (1800 – 25) đều có phần đóng góp vào cái
được gọi là Triều đại Virginia. (John Quincy
Adams, người kế tục Moroe, cũng thuộc nhóm này bất
chấp nguồn gốc Massachusetts của ông ta). Ngoại trừ
Jefferson, không ai trong số này là một người lãnh
đạo năng nổ. Họ có phong thái lịch sự, nhưng cũng
rất thờ ơ và nhu nhược. Họ đã chứng tỏ sự nhút nhát
đáng kinh ngạc trong các vụ việc nội bộ. Mặc dù
Madison đã tiến hành một chương trình cải tiến nội
bộ lớn trong Quốc hội, ông bác bỏ các chính sách đã
thi hành truớc đó, nhưng cái gọi là Bonus Bill vẫn
đang hình thành một ngân quỹ được sử dụng cho
đường sá và kênh đào. Năm năm sau, Tổng thống
Monroe bác bỏ biện pháp sửa chữa con đường
19Cumberland đang xuống cấp, và tạo những điều kiện
thuận tiện để thu gom lệ phí đường.
Một lần nữa ngoại trừ Jefferson, John Adam là
người có những suy nghĩ táo bạo nhất trong nhóm.
Tổng thống thứ sáu là một người đàn ông ngoài khả
năng thông minh và có kiến thức, ông còn mang lại
cho chính quyền liên bang sự bảo trợ về mặt khoa
học nghệ thuật cũng như ủng hộ cho quá trình kinh
tế. Thông điệp hàng năm đầu tiên ông gửi cho Quốc
hội yêu cầu liên bang ủng hộ cho một trường đại học
và một đài thiên văn quốc gia, một hệ thống thống
nhất về cân đo, một Bộ Nội vụ, cải cách các điều
luật một cách khéo léo và một chương trình có quy
mô lớn về cải cách nội bộ. Nhưng Adams vẫn thiếu
hẳn khả năng lãnh đạo. Mặc dù thông minh và có tài,
20nhưng ông vẫn cách biệt và khó gần. Một viên phụ
tá nói về ông: “Trong cuộc đời mình, không biết ông
ta có bao giờ cười hay chưa?”. Không có gì ngạc
nhiên khi ông đấu tranh với sự vụng về thô kệch của
nền chính trị quốc gia. Quốc hội vì bị điều hành
bởi các thế lực chính trị thù địch, đã lờ đi những
đề nghị của ông, và Tổng thống cũng vậy, khá kén
chọn trong việc sử dụng uy tín của ông hoặc sử dụng
sức mạnh của sự bảo trợ để đạt được sự ủng hộ và
thành công.
Triều đại John Marshall. Hồ sơ về những thành quả
chính trị nội bộ trong suốt Kỷ nguyên những cảm
nhận tốt đẹp đã được lưu giữ gần như hoàn toàn nhờ
những nỗ lực hết mình của Ngài Thẩm phán John
Marshall. Marshall là một người tụt hậu thuộc thời
21kỳ đầu đã tin vào chế độ liên bang của Hamilton.
Không giống như những người theo chế độ dân chủ
mới, ông không dao động vì những thế lực quốc gia
giàu mạnh và sức cuốn hút về thương mại của xu thế
thời đại. Năm 1810, trong cuộc chiến của Fletcher
chống Peck, ông đã bác bỏ một bộ luật liên bang vì
không phù hợp với hiến pháp – lần đầu tiên Tòa án
dám làm như thế – về cơ bản, chuyện này đã phạm vào
một bản khế ước cá nhân. Chín năm sau, trong
trường hợp của trường Cao đẳng Dartmouth, một lần
nữa, ông đã khuấy động tính trong sáng của một bản
hợp đồng khi ông cấm bang New Hampshire sửa bản
hiến pháp hoàng gia đối với trường Cao đẳng
Dartmouth. Rõ ràng, chỉ cần Marshall làm những gì
ông nói, những thỏa thuận được ký kết bằng hợp đồng
22được chính quyền thực hiện sẽ là những ranh giới
nhất định cho các chính trị gia.
Marshall cũng đấu tranh để giữ vững uy thế của
chính quyền liên bang trên tất cả các bang. Những
năm cùng lúc với trường hợp trường Dartmouth, bang
Maryland đã tấn công Ngân hàng thứ hai của Mỹ bằng
cách đòi lưu hành tiền giấy của họ. Marshall, trong
một bài báo cáo nói về quan điểm “thả lỏng xây
dựng” của bản Hiến pháp bang, ông đã tuyên bố luật
thuế của Maryland không có giá trị. Ông loan báo
trong McCulloch v. Maryland hai tin: Quốc hội có
quyền thuê một ngân hàng liên bang và các bang
thuộc liên bang phải đóng thuế tài sản? Ông nhất
trí ở vấn đề thứ nhất và chống đối vấn đề thứ hai.
Ông tuyên bố, thực ra quyền thuê một ngân hàng của
23Quốc hội được suy từ điều khoản “thiết yếu và hợp
lý” của Hiến pháp, được chính quyền liên bang gợi ý
bằng các quyền hạn về thuế, vay tiền, điều chỉnh
thương mại và chỉ đạo chiến tranh. Đối với hệ thống
thuế của các cơ quan liên bang, “quyền đóng thuế”
là “quyền hủy diệt”. Không bang nào có thể làm mất
hiệu lực quyền sáng tạo hợp pháp của Quốc hội, và
vì vậy luật của Maryland không phù hợp Hiến pháp.
Trong Cohens v. Virgina (1821), Marshall khẳng định
rằng các phán quyết của tòa án bang đều được Tòa
án tối cao xem xét lại trong những trường hợp liên
quan đến luật pháp liên bang.
Đối ngoại. Các Tổng thống trong triều đại Virgina
có thể là những người lãnh đạo bình thường trong
lĩnh vực đối nội, nhưng họ đã đấu tranh tích cực
24cho quyền lợi của nước Mỹ trên thương trường quốc
tế và đã thành công. Những năm sau cuộc bại trận
cuối cùng của Napoleon ở Waterloo (1815), nước Mỹ
gặp nhiều khó khăn và thử thách cam go. Tây Ban Nha
suy sụp nghiêm trọng vì những hỗn loạn quốc tế
giữa năm 1793 và trận Water-loo. Năm 1810, trong
khi cả Tây Ban Nha và Anh đều bị Napoleon chiếm làm
thuộc địa, nước Mỹ chiếm hữu đoạn đường bộ phía
Tây của người Tây Ban Nha từ Tây Florida đến sông
Perdido trên những vùng đất không rõ ràng, dải đất
này bao gồm luôn Louisiana Purchase. Người Tây Ban
Nha kịch liệt phản đối, nhưng cũng không hiệu quả
mấy.
Tuy vậy, món ăn ở Tây Floriada này dường như chưa
thỏa mãn lòng thèm muốn của người Mỹ. Dải đất khá
25lớn thuộc doi đất bờ biển vịnh Florida vẫn còn nằm
trong tay người Tây Ban Nha, nhưng đang là mục tiêu
khá lớn cuốn hút các nước nằm trên vành đai miền
Nam của chính bán đảo. Việc chiếm hữu này không chỉ
đóng khung vòng ngoài các quốc gia ở góc Đông Nam
mà nó còn giải quyết vấn đề các nô lệ bỏ trốn;
những người Da đỏ thù địch và bọn da trắng nổi
loạn, thường đột kích bất ngờ từ Florida vào
Georgia và sau đó quay trở về biên giới trốn vào
lãnh địa của người Tây Ban Nha, nơi mà giới quyền
lực Mỹ không thể chạm đến họ được.
Bộ trưởng tiểu bang, ông John Quincy Adams hối
thúc người Tây Ban Nha nhượng Florida cho nước Mỹ
theo thỏa thuận để ổn định ranh giới vốn không rõ
ràng vào thời điểm đó giữa lãnh địa của Louisiana
26Purchase và các tỉnh thành của người Tây Ban Nha ở
Mexico. Tây Ban Nha không đồng ý. Năm 1818, những
hoạt động mạnh mẽ của An-drew Jackson đã gây nên
một tình huống bất ngờ. Khi các lực lượng tiên
phong của người Mỹ đang tuần tra biên giới
Florida-Georgia, Jackson đã tự động băng qua biên
giới Tây Ban Nha và tiến hành cuộc đột kích, nhưng
lại ra lệnh tránh tấn công vào bưu điện và các khu
dân cư. Dân chúng vốn ít kiên nhẫn với một chính
sách màu mè như thế. Họ tuyên bố rằng ông ta đã
nhận chỉ thị của chính quyền để chiếm Florida,
Jackson đã hành động. Ông ta băng qua biên giới,
chiếm pháo đài của người Tây Ban Nha ở St. Mark,
hành quyết hai người Anh – Alexander Arbuthnot và
Robert Ambrister – người mà ông ta cho là kẻ phá
27rối, sau đó tiến vào chiếm Pensacola, đồng thời
truất phế chính quyền của người Tây Ban Nha.
Người Mỹ ca ngợi những việc làm mạnh mẽ của
Jackson; ở Washington, Luân Đôn và Madrid đều thất
kinh. Người lãnh đạo lạnh lùng duy nhất của liên
bang là Bộ thưởng Adams thấy rằng thái độ của người
dân có thể tạo cho nước Mỹ nhiều lợi thế. Đúng ra
phải xin lỗi Tây Ban Nha, Adams lại tấn công. Ông
gạt bỏ lời chống đối dữ dội của người Tây Ban Nha,
buộc tội người Tây Ban Nha đã thất bại trong việc
bảo vệ lãnh thổ của họ, và tuyên bố nước Mỹ mở rộng
bờ cõi đến lãnh địa của Tây Ban Nha xa hơn về phía
Tây theo thỏa thuận của Louisiana Purchase.
Adams áp dụng sách lược cứng rắn. Đại sứ Tây Ban
Nha ở Washington quát tháo ầm ĩ, nhưng chính quyền
28của ông ta đã nhận ra rằng không thể giữ nổi
Florida và chịu thua Mỹ. Tháng 2 năm 1819, trong
hiệp ước Adams-Onis, Tây Ban Nha đồng ý nhượng
Florida cho Mỹ và tuyên bố rút lui đến Origon. Bù
lại, Mỹ giả vờ bồi thường 5 triệu đô la cho những
tổn thất do người Mỹ gây ra ở Tây Ban Nha và đồng ý
với ranh giới thích hợp với Louisiana, kể cả các
tỉnh của người Mexico ở Texas.
Sự nhu nhược của Tây Ban Nha đã gây ra mối hiểm
họa và tạo cơ hội cho người Mỹ. Năm 1820, tất cả
các nước Trung Mỹ, ngoại trừ các đảo thuộc Caribe,
đều đã giành được độc lập. Nhưng Tây Ban Nha vẫn ấp
ủ hy vọng giành lại quyền sở hữu trước đây của họ.
Những hy vọng này được cổ vũ bởi Pháp, Phổ (Đức),
Áo và Nga, năm 1815, Quốc vương của các nước này đã
29lập Khối liên minh thần thánh để chống lại các thế
lực quân chủ và tự do. Trong số các cường quốc Âu
châu, chỉ có Đế quốc Anh chống lại khối Liên minh.
Người Anh sợ nếu Khối Liên minh giúp Tây Ban Nha
chống Mỹ, Pháp sẽ lấy lại những uy thế của họ ở
phía Tây bán cầu. Sự hồi sinh của đế chế châu
Mỹ-Tây Ban Nha có thể sẽ cản trở nền thương mại của
Đế quốc Anh và các quốc gia khác vốn đang phát
triển thuận lợi với các nước đang phát triển vùng
châu Mỹ Latinh vì sự độc lập của họ. Xem xét đến
thực trạng này, Bộ trưởng bộ Ngoại giao Anh, ông
George Canning đề nghị Anh và Mỹ cùng hợp tác để
ngăn cản Tây Ban Nha phục hồi lại quyền kiểm soát
những lãnh địa trước đây của họ.
Người Mỹ, cũng như Anh, đang hoảng hốt trước viễn
30cảnh Tây Ban Nha hồi phục và sự liên kết của các
cường quốc Âu châu ở châu Mỹ. Họ cũng đang bị quấy
rối bởi sự bành trướng gần đây của Nga, từ lãnh địa
Alaskan xuống đến bờ biển Bắc Mỹ. Nhưng Bộ trưởng
Adams, vẫn hoài nghi về bất kỳ sự hợp tác nào. Đối
với Mỹ, việc hợp tác với Anh sẽ đặt họ vào thế “một
con xuồng nhỏ bám đuôi chiến hạm của người Anh”.
Nói đúng hơn, Mỹ muốn muốn chống chọi một mình
không cần dựa vào sự hậu thuẫn không đáng tin của
Anh.
Tháng 11 năm 1823, Adams gợi ý với Tổng thống
Monroe nói với Quốc hội nên xem xét đến tình trạng
của các nước châu Mỹ La tinh, điều này vốn đã được
nói đến trong Học thuyết Monroe. Tổng thống công bố
bốn nguyên tắc để thiết lập các mối quan hệ của Mỹ
31với châu Âu và các quốc gia còn lại phía Tây bán
cầu.
Để chống lại sự bành trướng của Nga, Monroe tuyên
bố, thứ nhất: không một phần đất nào thuộc lãnh thổ
Mỹ quốc “được xem là đối tượng để biến thành thuộc
địa trong tương lai của bất kỳ cường quốc Âu châu
nào”. Thứ hai, các quốc gia độc lập của Mỹ phải duy
trì chế độ Dân chủ. “Chúng ta công nhận họ…. Một
cách trung thực và duy trì những mối quan hệ thân
thiện giữa Mỹ và các cường quốc này (kể cả các
vương quốc trong khối Liên minh thần thánh)”, ông
lưu ý, “tôi tuyên bố rằng chúng ta nên xem bất kỳ
những nỗ lực nào của họ trong việc mở rộng bờ cõi
đến bất kỳ phần nào ở tây bán cầu này đều là mối
nguy hiểm cho nền hòa bình và an toàn của chúng
32ta”. Nguyên tắc thứ ba là lời hứa trịnh trọng rằng
nước Mỹ sẽ tôn trọng các nước thuộc địa hiện có ở
châu Mỹ và hoàn toàn đứng ngoài không quan tâm đến
các nước châu Âu. Yếu tố thứ tư trong Học thuyết
Monroe, ông thông báo bằng một văn bản riêng đến
Đại sứ quán Nga ở Washington, khẳng định rằng Mỹ sẽ
chống lại bất kỳ sự chuyển nhượng các nước thuộc
địa hiện tại nào của Mỹ từ các nước châu Âu cho các
nước khác.
Những nguyên tắc của Monroe xuất hiện ở các quốc
gia đại lục Âu châu như một sự “khoe khoang”, “ngạo
mạn” và “vô lý”. Họ là như vậy. Nước Mỹ đang khẳng
định những quyền lợi mà luật pháp hay hòa ước quốc
tế không công nhận – những quyền lợi không thể nào
ủng hộ được. Thái độ tự phụ của các quốc gia châu
33Mỹ đáng thương và có vẻ thật lố bịch. “Ông Monroe,
người không phải là nhà cầm quyền tối cao”, Bộ
trưởng ngoại giao Pháp chế giễu “lại có những lời
lẽ mang sắc thái của một quốc vương đầy quyền lực,
có những binh đoàn và hạm đội sẵn sàng chiến đấu
ngay từ dấu hiệu đầu tiên… Ông Monroe là một vị
Tổng thống tạm thời của một nước Dân chủ thuộc bờ
biển phía Đông của Bắc Mỹ… Nền độc lập của nước này
đã có từ 40 năm trước; hà cớ gì mà nước Mỹ ngày
nay lại trực tiếp thống trị từ vịnh Hudson đến mũi
Hảo Vọng?”
Nước Mỹ đang trông đợi vào Đế quốc Anh. Không có
sự hỗ trợ của họ thì các chính sách mới cũng là
những hành động vô nghĩa. Tuy nhiên, nó cũng tạo
dũng khí cho một quốc gia có dân số chưa đến 10
34triệu người dám thách thức với các cường quốc châu
Âu. Đó cũng là chủ nghĩa lý tưởng. Sau này, nếu
nước Mỹ có xuyên tạc lại lời lẽ của học thuyết
Monroe cũng không còn là điều quan trọng, vì đó đơn
thuần chỉ là một lời phát biểu chung chung để
chống lại các thể chế Dân chủ và tự do quốc tế.
JACKSON TĂNG CƯỜNG THẾ LỰC
Các chính trị gia khá vất vả để đối phó với người
kế vị của Monroe. Nếu các tiền lệ vẫn được duy trì
như một người chỉ đạo thì mọi việc có vẻ hơi ồn ào.
Vì chức vị Bộ trưởng tiểu bang, ông John Quincy
Adams chắc chắn sẽ là người được chọn lựa vào năm
1824. Nhưng các tiền lệ trong suốt kỷ nguyên những
cảm nhận tốt đẹp không còn được sử dụng đã ảnh
hưởng khá lớn đến chính trị nước Mỹ. Các cử tri
35cũng đã mệt mỏi vì những quyết định vội vàng của
Vua Caucus. Người Mỹ ít sẵn lòng chào đón một người
đã từng đi xuyên suốt các châu lục, lớn lên trong
niềm tin và tự hào của quốc gia, hơn là một người
đã có đưa ra những quyết định bằng sự lịch lãm,
rộng rãi, hiểu biết và đứng đắn.
Những cải cách dân chủ trong các bang.
Quan điểm mới đã tạo một cuộc cách mạng âm thầm về
chính trị. Một thời gian, việc bỏ phiếu cho xu
hướng lờ đi các dấu vết cuối cùng về quyền sở hữu
của bang chiếm ưu thế. Một số bang kỳ cựu vùng ven
biển đang tiến đến nền Dân chủ vì họ đã hất cẳng
được đối thủ chủ trương thành lập liên bang quyền
quý của họ. Ở New York, số nhập cư khá lớn của
những người Mỹ từ nước Anh mới với quan điểm tự do
36là một yếu tố quyết định. Một số bang còn nhiều lạc
hậu ở phía Đông, những người chủ trương cải cách
quyền đi bầu thường tranh cãi rằng các bang kỳ cựu
phải tranh đua với các bang ở miền Tây mới hơn hoặc
dân số kém hơn họ. Dù bất cứ lý do gì, toàn bộ khu
bầu cử vốn đã mở rộng càng trở nên rộng hơn.
Những thay đổi khác cũng tạo thuận lợi cho xu thế
hướng nhiều đến quá trình dân chủ hóa chính trị.
Trong giai đoạn này, nhiều bang đã kết thúc việc
tranh cãi quyền bầu cử, vốn đòi hỏi các công dân
phải hiểu biết về ứng viên của họ một cách công
khai trong ngày bầu cử và đối diện với sự phẫn nộ
của những người có thế lực rất có thể xảy ra; họ đã
thay thế các tờ phiếu kín để bảo đảm tính riêng tư
và độc lập của các cử tri. Hầu hết các bang đều
37loại bỏ việc thẩm định tài sản đối với các công
chức và tái phân chia cơ quan lập pháp để trao cho
các vùng đại diện những thẩm quyền chính trị mà họ
đáng được nhận. Năm 1832, tất cả các bang trừ Nam
Carolina, đều dùng quyền lực của cơ quan lập pháp
để chọn người ứng cử vào chức Tổnh thống và công bố
điều đó cho các cử tri. Nhiều bang thay đổi các
chức vị bổ nhiệm cho người được ứng cử. Hệ thống
quy ước, trong đó các đảng viên bình thường có thế
lực, chẳng bao lâu được thay thế bằng hội kín, một
phương cách bổ nhiệm các ứng viên mới cho nhà nước.
Vào đầu thế kỷ, người kế tục đầu tiên nhậm chức ở
bang New Jersey và Delaware, lan đến các bang nằm
giữa Đại Tây Dương trong suốt thập niên 1820 và đến
New England vào cuối thập niên. Năm 1831, Đảng
38Anti-Masonic lần đầu tiên sử dụng luật này để chọn
một ứng viên cho chức Tổng thống, và chẳng bao lâu
hệ thống này đã trở thành một tiêu chuẩn trong quốc
gia cũng như trong chính trị địa phương.
Người ta cho rằng những thay đổi này bắt nguồn từ
miền Tây và sau đó lan đến miền Đông. Bằng chứng
cho thấy điều này đã ảnh hưởng đến các lãnh vực
khác ở khắp nơi. Ít nhất trong các sự kiện chính
trị, miền Đông là người tiên phong và những ứng
dụng của miền Đông đã được những người di cư mang
đến miền Tây. Đó cũng là điều bình thường khi cho
rằng Jackson và những người ủng hộ ông có trách
nhiệm về nhiều thay đổi này. Đúng ra trên thực tế,
hầu hết những thay đổi đã diễn ra trước khi bước
theo phong trào của Jackson.
39Cuộc bầu cử năm 1824. Mặc dù không có trách nhiệm
vì những xu thế mới này, nhưng rõ ràng Jackson vẫn
có lợi. Trong số các đối thủ năm 1824, chỉ có một
người duy nhất nổi bật là một vị anh hùng được nhân
dân mến mộ. Adams là một người có tài năng xuất
chúng, nhưng thái độ cách biệt và thân cận gần gũi
với triều đại Virginia cổ đã làm các cử tri mất tín
nhiệm ông ta. William Crawford của Georgia có
những người ủng hộ ở miền Nam nhưng lại thiếu tài
sắc sảo dí dỏm ở những nơi khác. Ngay cả việc chấp
nhận theo nghi thức trong hội kín Quốc hội cũng ít
ủng hộ ông ta. Clay và Calhoun được chấp thuận bởi
các nhóm địa phương ở Ken-tucky và Nam Carolina.
Mặc dù đóng vai trò nổi bật là các nguyên thủ quốc
gia suốt niên kỷ và những năm ngay sau cuộc chiến
401812, họ cũng không được quốc gia ủng hộ. Chẳng bao
lâu, Calhoun bị loại khỏi cuộc đua. Không có một
đảng đối kháng nào trong năm 1824. Trừ nhóm nhỏ của
Anti-Mason, tất cả mọi người đều tự biết họ là một
nước Dân chủ, và cuối cùng chiến dịch biến thành
một cuộc tranh cãi chủ yếu mang tính quần chúng.
Nếu cuộc bầu cử xảy ra bình thường yên ổn, thì kết
quả của nó cũng vậy. Không có ứng viên nào giành
được đa số phiếu bầu của cử tri. Jackson xếp thứ
nhất trong cả hai cuộc bầu cử và bầu cử nhân dân;
Adams xếp thứ nhì; Crawford và Clay tụt phía sau cả
hai. Hiến pháp đã ghi rõ rằng trong trường hợp
không có ứng viên nào đạt được đa số phiếu bầu, thì
việc lựa chọn chức vị Tổng thống sẽ do Hạ viện
quốc hội quyết định, ở đây, mỗi bang sẽ bỏ một lá
41phiếu duy nhất cho một trong ba ứng viên có số
phiếu cao nhất. Quốc hội không yêu cầu cá nhân đại
diện đó bầu cho người được bầu nhiều nhất hay do
nhân dân bầu, nếu có thì đó cũng không phải là điều
đặc biệt cho tiến trình. Tuy vậy, những người ủng
hộ Jackson vẫn tin rằng Hạ viện với lương tâm đạo
đức sẽ chấp thuận ứng viên của họ là người đàn ông
được mọi người yếu mến nhất. Khi đại biểu của 13
bang với hơn phân nửa đã bỏ phiếu cho Adams, họ đã
kịch liệt phản đối và phủ nhận ý kiến của mọi
người. Họ buộc tội Clay đã dùng thế lực của mình để
bầu cho Adams. Bỏ qua những thỏa thuận tư tưởng
chung giữa Clay và Adams, những người ủng hộ
Jackson đã buộc tội rằng cả hai đã dính vào “một
cuộc thỏa thuận xấu xa” khi vị Tổng thống mới chỉ
42định Clay làm bộ trưởng tiểu bang cho ông ta.
Chính quyền của Adams bị kìm kẹp bởi những lời
buộc tội đó và những thù oán của những người ủng hộ
Jackson. Đất nước không có vẻ gì giống như 10 năm
qua, và những cố gắng đều không hiệu quả. Như chúng
tôi đã lưu ý, hầu như không có gì trong chương
trình nghị sự của Adam được Quốc hội thông qua.
Ngay cả trong lĩnh vực đối ngoại, nơi mà những kinh
nghiệm quý báu của ông ta có thể là một lợi thế,
ông ta cũng hoàn thành rất kém. Tiêu biểu cho kinh
nghiệm của ông trong ngành ngoại giao là trò hề
trong Hội nghị Panama năm 1826. Khi ông và Bộ
trưởng Clay giới thiệu hai người làm đại biểu đến
dự cuộc mít tinh ở các quốc gia Tây bán cầu thuộc
Panama, các đối thủ chính trị của họ trong Quốc hội
43đều ngừng các cuộc họp mặt bằng nhiều tháng tranh
cãi giận dữ. Cuối cùng, khi Quốc hội chấp thuận các
đại biểu thì cũng đã quá muộn. Một trong hai người
đã chết trên đường đi và người kia cũng đến quá
trễ vì hội nghị đã chuyển sang nơi khác trước khi
ông ta đến được Panama.
Bộ luật thuế bẩn thỉu. Tất cả đều do chính quyền
của Adams tranh chấp với Jackson và những người ủng
hộ Jackson. Cuộc chiến của họ chủ yếu chú trọng
vào chính sách thuế.
Năm 1828, biểu thuế vốn đã được lập từ 12 năm qua
được sửa đổi lại. Giờ đây các điều khoản bảo vệ nền
công nghiệp tân thời trong biểu thuế năm 1816 đã
không còn thích hợp nữa. Số lượng người sản xuất
len, sợi và sản xuất gang gia tăng – thậm chí nhiều
44trang trại – cần có nhu cầu nhập khẩu cao hơn để
bảo vệ họ chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài.
Những người bảo vệ nền công nghiệp trong nước quan
tâm đến các bang thuộc Đông bắc hơn vùng Tây Bắc
lạc hậu. Người dân các bang miền Nam hầu như ở mọi
tầng lớp kinh tế đều phản đối bất kỳ mức thuế nào
vì nền công nghiệp của họ ít được bảo hộ. Thật vậy,
họ vui vẻ dựa vào Đế quốc Anh để nhập khẩu, hàng
hóa được sản xuất với giá rẻ nhất. Năm 1816, khi
triển vọng kinh tế của các bang miền Nam vẫn còn
chưa rõ ràng, dân chúng ở các bang miền Nam nước Mỹ
đã chấp nhận mức thuế. Năm 1828, sau khi đã định
đoạt số phận vùng là nguồn cung cấp nguyên liệu thô
cho thị trường thế giới, các nhà lãnh đạo đã xem
việc bảo hộ mức thuế như là một công cụ làm gia
45tăng lợi nhuận cho miền Bắc ở những phí tổn của
miền Nam.
Vấn đề là phí tổn khá cao, và hầu hết các chính
trị gia đều muốn né tránh. Nhưng Mar-tin Van
Burent, quan nhiếp chính Albany ở New York lại tin
rằng việc cải cách biểu thuế chủ yếu sẽ giúp bạn
của ông ta là Jackson đắc cử Tổng thống khi đã
giành được sự hỗ trợ từ miền Bắc và miền Tây. Ông
bảo trợ dự luật thuế đã được thảo ở Quốc hội thời
tiền Jackson, cuối cùng nó đã làm tổn hại đến nền
sản xuất của nước Anh mới bằng cách tăng mức thuế
với các nguyên liệu thô dùng sản xuất hàng hóa.
Cùng thời gian này, các bang miền Nam cũng đương
đầu với viễn cảnh nhiều hàng nhập khẩu từ nước Anh
tăng giá cao hơn. Chỉ có các nhà tư bản công nghiệp
46lớn ở miền Trung Thái Bình Dương và các nhà sản
xuất cây gai dầu, len thô, và một số nông trại sản
xuất có chút hy vọng nằm ngoại dự luật thuế. Phương
án gây nhiều rắc rối đáng chê trách đương thời đó
là của Van Burent xảo quyệt, ông ta đã dự tính tăng
uy thế chính trị cho những người theo Jackson,
bằng cách cho họ một dự luật được mọi người công
nhận không phù hợp với nhân dân để sau đó họ có thể
lớn tiếng phản đối.
Hầu hết các học giả thời đó đều nhất trí rằng Van
Buren rõ ràng có thiên vị trong luật thuế 1828 vì
những người ủy nhiệm của ông ta ở New York muốn như
thế và vì ông ta tin rằng mức thuế cao hơn sẽ
giành được sự ủng hộ cho Jackson từ miền Bắc và
miền Tây, nơi được xem là có lợi nhiều nhất. Bất
47luận thế nào, dù các bang miền Nam không bỏ phiếu
cho Adams, ở miền Bắc và miền Tây cuộc bầu cử cũng
đã hoàn tất tốt đẹp. Van Buren không định dùng dự
luật để xúc phạm miền Bắc; đó là việc làm của Quốc
hội, những điều khoản trao đổi của bộ thuế được
nhân đôi mức độ vượt ngoài bản chất nguyên thủy của
nó.
Dù nó có bất kỳ mục đích nào, “bộ luật thuế bẩn
thỉu” này cũng đã xúc phạm trắng trợn đến miền Nam.
Tất cả mọi hàng hóa ở các bang miền Nam đều mua
với phí cao hơn, trong khi đó, giá cây bông trên
thế giới đột ngột giảm mạnh. Tiếng phản đối của
người dân các bang miền Nam là đương nhiên và rõ
ràng, nhưng nhắm vào John Calhoun, người tự mình
đảm nhận việc thực thi hiến pháp vì lợi ích khu vực
48của ông ta. Cơ quan lập pháp Nam Carolina đã lén
xuất bản “bài bình luận và kháng nghị” của Calhoun
phủ nhận rằng Quốc hội có quyền thu thuế cao đến
mức không thể nhập khẩu được. Những người sáng lập
bộ thuế chỉ có ý định áp đặt những mức thuế vừa
phải lên hàng hóa nhập khẩu cũng như các các mức
thuế hải quan. Ông phát biểu, điều luật 1828 rõ
ràng có phân biết đối xử, thiên vị các bang đang
sản xuất, gây thiệt hại cho những bang phải dựa vào
nhập khẩu và công nghiệp ít được bảo hộ. Calhoun
đứng sau các luận cứ đòi hạ thấp mức thuế khẳng
định rằng nếu Quốc hội vẫn giữ nguyên những việc
làm trái hiến pháp như thế, cũng có nghĩa là bất kỳ
nước nào cũng có quyền triệu tập hội nghị và tuyên
bố một bộ luật như thế là vô giá trị và không có
49hiệu lực. Bài bình luận và kháng nghị cũng nêu rõ
tác giả của nó đã từng là một người theo chủ nghĩa
dân tộc, và đang trên đường trở thành người vĩ đại
đấu tranh cho các bang miền Nam.
Cuộc bầu cử 1828. Bất chấp những hy vọng của Van
Buren, cuộc bầu cử Tổng thống 1828 vẫn xoay quanh
các cá nhân hơn là các sự kiện. Adams, với người
đồng hành Rich-ard Rush của Pennsylvania, đã được
bổ nhiệm bởi hội nghị “Dân chủ quốc gia” ở
Harris-burg, hội nghị bầu Tổng thống của các đảng
chủ yếu đầu tiên. Jackson và Calhoun được cơ quan
lập pháp Tennessee chọn và sau đó được ổn định
trong lần bỏ phiếu kín của những người ủng hộ ở các
bang khác. Mặc dù tin tức công bố Tổng thống Adams
là người duy nhất được công nhận, nhưng, trong các
50hội nghị dân chủ, trên thực tế, ông vẫn là một ứng
cử viên yếu kém. Những người ủng hộ ông chỉ có
nhiều ở nước Anh mới và những vùng định cư khác
thuộc nước Anh mới.
Cuộc tranh cử được xem là một trong những cuộc bầu
cử bẩn thỉu nhất. Những người theo Jackson, đã
nghiên cứu nhiều thất bại của họ năm 1824, đã khơi
lại những lời buộc tội tham nhũng làm mất thể diện
Adams và sử dụng đến những lời gièm pha. Ở
Penn-sylvania giới báo chí theo Jackson tuyên bố vợ
của Adams, Louisa, là người sinh ngoài giá thú.
Một nhà biên tập ở Missouri đã buộc tội rằng Adam
đã sống không hợp pháp với vợ ông ta trước khi họ
cưới nhau. Những câu chuyện gièm pha tương tự cũng
được lan rộng bởi những kẻ đối nghịch. Rachel
51Jackson, người được cho là thuộc dòng họ nhà Adams,
đã từng ly dị với người chồng đầu tiên khi bà cưới
Tổng thống. Cũng như đối với chính Jack-son, ông
là một người độc ác, đã từng đề nghị án tử hình cho
ba người dân quân tự vệ v
trong chiến dịch chống lại người Da đỏ Bắc Mỹ vào
thập niên trước.
Đó là những vấn đề hầu như không nên bàn luận. Mặc
dù chúng ta đã xác định theo kỳ hạn sự xuất hiện
của hệ thống đảng phái thứ hai từ kỷ nguyên này,
một số nguyên tắc dường như chia rẽ các cứng cử
viên. Điều cần lưu ý rằng không ai trong hội nghị ở
New York xác nhận rằng sự bổ nhiệm Jackson làm ứng
viên Tổng thống được xem là quan điểm của các ứng
cử viên trong cộng đồng. Một người Penn-sylvania
52quan sát cho rằng “điều bí ẩn to lớn của cuộc tuyển
cử” là “miền Nam nên công khai ủng hộ ứng viên
Tổng thống Jackson vì mục đích ngăn cản các mức
thuế và những cải cách cục bộ, chúng ta nên ủng hộ
ông ta vì một mục tiêu hoàn toàn đối lập”. Vị trí
của Adams có thể nhận thấy dễ dàng hơn. Ông ta đại
diện cho một chính quyền quốc gia mang tính quân
chủ và năng động, nếu ông ta đại diện cho bất kỳ
điều gì, và những người còn lại trong số đã lập ra
chính phủ liên bang ở nước Anh mới rõ ràng đã tìm
được ở ông một ứng cử viên thích hợp. Ông vẫn nhận
được sự ủng hộ của nhiều người Mỹ theo chế độ Dân
chủ, họ đã xem ông như là một người nối dõi về tinh
thần của Jefferson.
Chỉ có nhóm Anti-Mason là có vẻ đã có một chương
53trình rõ ràng. Nhóm người hiếu kỳ này có mặt ở New
York ngay sau sự biến mất bí ẩn của William Morgan,
người trước Mason năm 1826, vốn là người đã viết
một quyển sách vạch trần những huấn thị về mặt tinh
thần và “nhiều bí mật” khác của Mason. Morgan được
cho là bị Mason ám sát, và sự phẫn nộ của cộng
đồng tiếp theo đó đã dẫn đến hình thành một tổ chức
chính trị nhằm mục đích giảm quyền lực của các
nhóm bí mật trong nội bộ quốc gia. Năm 1828 các
đảng mới, nói chung, đều đã ủng hộ Adams, nhưng
nhiều năm sau, Anti-Mason đã bổ nhiệm những ứng cử
viên riêng của họ và chuẩn bị bắt tay vào việc
tranh giành quyền lợi trong chính quyền, và chính
đảng cấp tiến của Jack-son đảm nhận vai trò mở rộng
lĩnh vực cho nền kinh tế hơn bao giờ hết.
54Cuộc tuyển cử 1828, nếu chúng ta bỏ qua
Anti-Masons, không đóng góp quá nhiều vào tự thành
lập- hay tái thiết – đã được xác định rõ và là
những hệ tư tưởng mang tính cạnh tranh đảng phái.
Mặt khác, trong nhiều bang, nhất là các bang miền
Trung Thái Bình Dương, cuộc tuyển cử Jackson-Adams
đã khuấy động những bản năng chính trị vốn ngủ yên
từ hơn một thập niên. Hai khía cạnh trong cuộc
tuyển cử, đặc biệt trong khía cạnh mang màu sắc của
Jackson, đang thu hút nhiều người tán thành của
năm 1816 và 1820 hoặc bốn phe phái cạnh tranh của
năm 1824. Khác hơn bốn năm trước, các cử tri đã
vượt ra khỏi cách sắp đặt bỏ phiếu kín của họ.
Jackson thắng tuyệt đối, giành được 148 số phiếu và
647.000 cử tri ngưỡng mộ so với Adams là 83 và
55509.000.
VUA ANDREW
Hệ thống quân quyền. Chỉ thị công việc đầu tiên
của Jackson là phân phối các bổng lộc chính trị. Vị
Tổng thống mới không loại bỏ hoàn toàn các đối thủ
chính trị như các học giả đã nghĩ. Trong một năm
rưỡi đầu, ông đã gạt ra khoảng 900 trong hơn 10.000
nhân viên liên bang, chỉ chiếm khoảng 9% trên tổng
số. Về phạm vi chính trị, chính sách của Jack-son
còn có điều gì đó khá mới mẻ. Các Tổng thống của
triều đại Virginia thường ưu tiên cho các thành
viên trong đảng của họ trong việc lấp đầy những chỗ
còn trống, nhưng họ hiếm khi sa thải các nhân viên
chống đối các chính sách của họ để tạo những
khoảng trống mới. Jackson và bạn bè ông ta là những
56người ủng hộ tích cực và làm theo quan điểm ôn hòa
của ngành dân chính liên bang. Trung thành với
Tổng thống, họ nhanh chóng thanh lọc, chủ yếu xem
xét đến việc giữ lại ở nội các. Thực ra, nếu ở đây
ít người bị thải hồi đó là vì có quá nhiều người
ủng hộ Jackson hoặc nhanh chóng trở thành người ủng
hộ để tránh bị mất việc.
Ngay cả người tiền nhiệm của Jackson cũng không
nâng “hệ thống quân quyền” thành một nguyên tắc
quyền quý. Jackson nhiều lần thẳng thắn thú nhận
những định kiến chính trị hẹp hòi đang đẩy nhiều
viên chức kỳ cựu ra khỏi nội các. Năm 1832, Thượng
nghị sĩ William L. Marcy tuyên bố: “Chiến thắng là
chiến lợi phẩm của kẻ thù”. Tuy vậy, nhìn chung họ
đã cố gắng thực hiện được một cuộc cải cách chính
57trị. Họ nói: “Xoay vòng trong nội các” là một chính
sách dân chủ nhằm chấm dứt tình trạng độc quyền
các nhân viên quý tộc trước đây và tạo thêm nhiều
công dân với nhiều cơ hội rèn luyện năng lực. Vì
vậy, theo lời Jackson: “trách nhiệm của tất cả các
nhân viên cộng đồng là… thẳng thắn và đơn giản là
tư chất của những người thông minh thể hiện trong
hành động của họ”, không cần loại trừ các nhóm đang
phụng sự quốc gia. Các học giả đã công nhận
Jacksons vì lời lẽ của ông thường xem hệ thống quân
quyền như một tiến trình dân chủ hóa về chính trị.
Trên thực tế, việc xoay vòng trong nội các không
dân chủ một cách đặc biệt. Nó không thay thế các
quý tộc bằng những người bình thường; về cơ bản
58những người được Jack-son bổ nhiệm không khác nhiều
với người tiền nhiệm của họ. Những người theo
Jack-son chủ yếu không quan tâm đến việc mở rộng
quyền lực. Mục tiêu chính của họ là tạo cơ chế
chính trị cho hệ thống đảng. Sự quyến rũ của nội
các sẽ là một động cơ quyền lực để những người có
tham vọng làm việc vì sự nghiệp của đảng, trong khi
đó, các nhân viên nội các có thể được ấn định
lương bổng chính quyền theo sự đóng góp của họ với
kho bạc của đảng. Hệ thống quân quyền có thể là
thành phần quan trọng và hữu dụng trong hệ thống
đảng thứ hai đang nổi lên, nhưng nó không phải là
bằng chứng để chứng minh Jackson và đảng của ông ta
dân chủ hơn những người tiền nhiệm.
Chính sách mới đã hủy hoại nhuệ khí ngành dân
59chính, tác động của những việc không rõ ràng thật
thảm thương. Cựu Tổng thống Adams đã ghi trong nhật
ký: “Một thư ký trong Bộ Chiến tranh, Henshaw, đã
phải ngậm miệng đến ba ngày chỉ vì sợ bị đuổi việc.
Linneus Smith ở Bộ Ngoại giao lại nói say sưa đến
phát điên và những người khác được cho là đã được
báo trước với cùng một tai ương”. Bên cạnh việc suy
giảm hiệu quả, hệ thống quân quyền đang đi dần đến
nạn tham nhũng. Ở phòng thuế hải quan New York,
nơi mà tính thiếu trung thực phải bị vùi sâu tận
đất đen, thì nhân viên thu thuế, Samuel Swartwout,
đã biển thủ hơn 1 triệu đô la và bỏ trốn đến Anh.
Xu hướng của Jackson chủ yếu thiên vị bạn bè và
những người quen để phục vụ cộng đồng thể hiện rất
rõ trong việc chọn người cố vấn gần gũi nhất cho
60ông. Ông lờ đi văn phòng nội các và dựa vào cái mà
ông gọi là Nhóm cố vấn không chính thức cho những
người đứng đầu nhà nước, lôi kéo những người ban
đầu đã ủng hộ chức vị Tổng thống của ông. Những
người này được ban những nhu cầu cấp thiết để hỗ
trợ họ, đồng thời, họ cũng dành hết thời gian của
mình cho nền chính trị và sự nghiệp chính trị của
Jackson.
Bất kể các Tổng thống của triều đại Vir-ginia kém
cỏi như thế nào, họ cũng đã duy trì được sự trung
thực và hiệu quả ở mức độ cao trong việc phục vụ
quần chúng. Những người theo Jackson – và những
người ủng hộ – rõ ràng đã hạ thấp sắc thái trí tuệ
và đạo đức trong hoạt động chính trị nước Mỹ. Tuy
nhiên, họ cũng có khả năng làm cho một người bình
61thường cảm nhận được ý nghĩa của việc tham gia. Lúc
đầu, tính chất mới này đã thể hiện trong số liệu
của cuộc bầu cử, trừ cuộc tuyển cử Tổng thống 1828.
Phần lớn những người tham dự bầu cử phải chờ cho
đến khi cuộc giao tranh thực sự giữa hai đảng xuất
hiện ở tất cả các bang và các cử tri phải theo kịp
cuộc ganh đua của các ứng viên thân cận. Nhưng đảng
của Jackson đã không truyền tinh thần công khai
thẳng thắn và mới mẻ cho hoạt động chính trị – một
tinh thần thiết yếu để đi đến thành công của hệ
thống đảng thứ hai.
Phong cách của Jackson. Hệ thống quân quyền là một
trong những đóng góp của những người theo Jackson
nhằm phục hưng nền chính trị trong những năm này,
tuy vậy rõ ràng cũng chỉ là một kết quả của sự ô
62hợp. Jackson là một vị Tổng thống có tính cách mạnh
mẽ, ông còn là một nhà quân sự, ông thường xuyên
phải kiềm chế và chịu đựng một cách miễn cưỡng
trước Quốc hội, cơ quan lập pháp hoặc thực thi công
lý của Tòa án tối cao. Là một con người mạnh mẽ,
ông truyền những cảm nhận mãnh liệt về yêu hoặc
ghét cho các cử tri, ông không phải là một người
uyên bác, hoặc thậm chí một người có tư duy rõ ràng
và kiên định. Với hành động chỉ dựa vào định kiến,
ông được xem như một người chưa có kinh nghiệm và
chưa bao giờ bị bỏ rơi. Là một người chủ nô miền
Nam, ông có vài bất bình với tình trạng nô lệ và
xem thường những người theo chủ nghĩa bãi nô. Là
người đến từ biên giới bang Tennessee và lãnh đạo
cuộc chiến chống người Da đỏ, ông không thích người
63Da đỏ. Hầu như bị phá sản năm 1819 vì những chính
sách cứng rắn của Ngân hàng Mỹ quốc, ông ghét các
ngân hàng và đặc biệt là ngân hàng của Mỹ. Tính
cách và tất cả các quan điểm chính trị của Jackson
hầu như chỉ nhằm vào việc triệt phá các đối thủ
chính trị của kẻ thù vì sợ rằng họ sẽ tiêu diệt.
Nhiều người Mỹ nghĩ đến khí thế và nguyên tắc của
Old-Hickory, nhưng đối thủ của ông chỉ trích tính
nóng nảy và chỉ tay năm ngón của ông, gọi ông là
Vua Andrew. Sự chấp nhận với cái tên Đảng Whigs của
họ nhằm ý định xem họ ngang bằng với đối thủ của
quyền lực độc đoán, cũng như Đảng Whigs của nước
Anh đã chống đối sự chuyên chế của vương quyền vào
cuối thế kỷ 17.
Vô hiệu hóa cuộc khủng hoảng. Jackson đánh dấu
64nhiệm kỳ đầu bằng sự chống đối không khoan nhượng
trong suốt cuộc tranh luận về biểu thuế. Mặc dù phê
phán Bộ luật thuế bẩn thỉu trong suốt cuộc tuyển
cử, Jack-son vẫn làm những người miền Nam thất vọng
khi từ chối ủng hộ việc giảm bớt đáng kể các loại
thuế nhập khẩu. Năm 1832, khi Quốc hội thông qua
việc cắt giảm bớt một phần luật thuế 1828, những
người ở Nam Carolina dẫn đầu là Phó Tổng thống
Calhoun, đã làm quốc gia rơi vào một cuộc khủng
hoảng chính trị khi kêu gọi triệu tập hội nghị và
tuyên bố biểu thuế không có hiệu lực ở bang
Palmetto.
Sắc lệnh vô hiệu hóa của Nam Carolina phản ảnh
nhiều bất mãn về kinh tế của người dân các bang
miền nam. Năm 1832, như chúng ta đã thấy ở chương
6512, chế độ nô lệ đã trở thành một vấn đề chính trị
và xã hội quan trọng trong quốc gia. Chỉ mới hai
năm trước, các nhà báo và cải cách ở Massachusette
đã yêu cầu “hoàn tất việc giải phóng nô lệ ngay lập
tức” đối với các nô lệ ở miền Nam và dùng những
lời lẽ cứng rắn để phản đối kịch liệt việc thuê
mướn nô lệ và bọn chủ nô. Cuộc tấn công của
Garri-son đã khai mào một thời kỳ đầy công kích mới
của phong trào chống chế độ nô lệ, gây kinh hoàng
và xúc phạm đến các chủ bút ở Nam Carolina. Những
người này đã thấy rằng việc chống chế độ nô lệ là
đe dọa nghiêm trọng đến sự bình ổn và lợi nhuận của
xã hội có liên kết với nô lệ của họ. Họ tin rằng
việc vô hiệu hóa là một vũ khí thích hợp để bảo vệ
quyền lợi của miền Nam chống lại sự xâm chiếm của
66miền Bắc mà theo như họ biết, đã bắt đầu củng cố
lại với phong trào chống miền Nam mới.
Việc làm của Nam Carolina nhằm đe dọa liên bang.
Tuy nhiên, Jackson xem điều đó như một sự sỉ nhục
cá nhân không đáng ngại. Tổng thống tuyên bố hành
động của bang này không tồn tại trong lịch sử thế
giới và Calhound là một kẻ mất trí. Ít nhất cho đến
lúc này, ông ta cũng đã tìm cách tránh sự lộ diện
trực tiếp. Tháng 12 năm 1832, trong lời nhắn gửi
đến Quốc hội, ông đã nói đến những thay đổi sắp
diễn ra trong các điều khoản của bộ thuế và nói với
những người ở Nam Caro-lina rằng phản ứng của họ
là quá mức. Không bao lâu sau đó, ông cho công bố
một bản tuyên cáo để cảnh báo mọi người rằng việc
vô hiệu hóa đã gây nguy hiểm cho toàn bộ nền chính
67trị quốc gia. Cùng thời gian này, Jackson yêu cầu
Quốc hội hỗ trợ chính quyền để thực hiện các luật
hải quan – một yêu cầu đã được Quốc hội công nhận
trong Dự luật Vũ trang. Vài tuần sau, với sự giúp
đỡ của Clay, Jackson đã hạ thấp được mức thuế.
Không tìm được sự hỗ trợ từ các bang khác, những
người cầm đầu ở Nam Carolina đã thối lui. Cơ quan
lập pháp của bang hủy bỏ Sắc lệnh vô hiệu hóa chống
lại luật thuế 1832, nhưng đồng thời đây cũng là
một cử chỉ thách chức nhằm vô hiệu hóa Dự luật vũ
trang. Trong sự hỗ trợ cho cuộc khủng hoảng vừa
qua, có một vài lời than phiền về hành động của
quốc gia nhằm chối bỏ nguồn gốc của việc vô hiệu
hóa.
Chính sách với người Da đỏ. Vị trí của Jack-son
68trong việc vô hiệu hóa dường như đã khẳng định chủ
nghĩa dân tộc mạnh mẽ của ông ta. Nhưng ông ta rất
sẵn lòng nhìn quyền lực của chính quyền liên bang
bị xem nhẹ nếu điều đó có lợi cho mục đích của ông
ta hay phù hợp với một trong những định kiến cơ bản
của ông ta. Một minh chứng rất rõ cho điều này đó
là ông ta thách thức John Marshall thông qua chính
sách với người Da đỏ.
Hiệp ước hòa bình với Anh năm 1815 đã làm khựng
lại dòng người định cư đến miền Tây. Họ đổ vào khu
đồng bằng Great Lakes, thung lũng Ohio và đồng bằng
Gulf dựng nên hàng ngàn nông trại, đồn điền và thị
trấn. Các bộ lạc Da đỏ còn lại ở cả hai vùng Bắc
và Nam sông Ohio, là mối đe dọa làm dừng lại sự tấn
công ồ ạt của nền văn minh của người da trắng,
69chính quyền cũng đưa thêm nhiều biện pháp mà cách
tốt nhất là đẩy họ lùi xa vào vùng Missisippi. Năm
1817, Jackson với tư cách là nhân viên thuộc Bộ
chiến tranh, bị ép ký một hiệp ước với người
Cherokee ở Georgia, trong đó họ đồng ý đổi những
vùng đất bộ lạc của họ để lấy số đất tương đương ở
phía Tây. Những người Da đỏ này không muốn quay trở
lại tình trạng cũ và muốn được định cư ổn định như
những nông dân. Mặc dù đất đai ở Georgia đều đã bị
các bộ lạc chiếm giữ, nhưng mỗi gia đình người Da
đỏ chỉ có 640 mẫu Anh làm tài sản cá nhân. Vì căm
ghét Jackson, hầu như tất cả người Chero-kee đều
chọn ở lại Georgia; thật vậy, nhiều nô lệ được mua
và họ bắt đầu trồng bông trên các đồn điền 640 mẫu
Anh (640x4,046m2= 2.589,5m2) mới của họ.
70Thất bại trong việc đẩy lùi người Da đỏ về miền
Nam được bù đắp bằng những thành công ở miền Bắc.
Năm 1818 và 1819, các hiệp ước đã buộc các bộ lạc
Wyandot, Chippewa và Delaware đi khỏi những lãnh
thổ rộng lớn ở Indiana và Illinois. Nhưng diễn tiến
của quá trình này dường như quá chậm, vì vậy năm
1825, Tổng thống Monroe tuyên bố tất cả các bộ lạc
phía Đông của quốc gia sẽ được chuyển sang kinh
tuyến 95, lập “biên giới cố định của người Da đỏ”.
Tổng thống tuyên bố họ có thể sống trong hòa bình,
không bị người da trắng quấy nhiễu và có quyền bảo
vệ nòi giống của mình. Chính quyền sẽ cố gắng không
biến người Da đỏ thành người châu Âu có nước da
màu đồng.
Dưới sự chỉ huy của Bộ trưởng Bộ chiến tranh
71Calhoun, Quốc hội bắt đầu di dời các bộ lạc còn lại
ở vùng Tây Bắc và miền Nam. Do sự chống đối của
người Da đỏ, các chính sách mới chỉ có thể thực
hiện được bằng những thủ đoạn bỉ ổi. Các nhân viên
chính quyền mua chuộc các thủ lĩnh, ký kết những
hiệp ước cam kết phải di chuyển tất cả các bộ lạc,
rồi sau đó tuyên bố đó là ý muốn của người Da đỏ.
Các bộ lạc miễn cưỡng chấp hành vì những lời đe dọa
chính trị và quyền lực. Năm 1825, các bộ lạc Osage
và Kansas đã nhượng lại cho chính quyền toàn bộ
vùng Kansas và phía bắc Oklahoma trừ hai vùng đất
riêng dành cho người Da đỏ. 15 năm sau đó, toàn bộ
người Da đỏ vùng Tây Bắc cũng di dời tương tự – gồm
các bộ lạc Shawnee, Kickapoo, Sauk, Fox,
Potawatomi, Ottawa, Iowa, Miami và Peoria. Nhưng
72các bộ lạc phía Tây Nam lại cứng cỏi hơn.
Ở Georgia, Carolina, Alabama, Mississippi và năm
quốc gia đã văn minh – Cherokees, Creak, Choctaws,
Chickasaws và Seminoles – đã chiếm cứ 33 triệu mẫu
Anh vùng lãnh thổ có giá trị. Những người Da đỏ này
đã trở thành những người có nền nông nghiệp ổn
định, với một hệ thống xã hội và chính trị vững
vàng, có trình độ văn hóa cao. Họ bước theo con
đường của người da trắng, và bằng những nguyên tắc
hoạt động hiện tại của người Mỹ da trắng, họ đang
từ bỏ sự riêng biệt để thụ hưởng sự pha trộn không
bình thường của nền văn hóa châu Âu và Da đỏ. Nhưng
đất đai của họ đã khơi gợi lòng tham và sự thèm
muốn của người da trắng hàng xóm. Khi cơ quan lập
pháp Georgia buộc người Cherokee bán đất để chuyển
73về miền Tây, các tù trưởng đã kiện tòa án liên bang
và được sự ủng hộ của chánh án Marshall trong vụ
kiện giữa Worcester và Georgia (1832). Jackson từ
chối việc thực thi quyết định của chánh án, viện lẽ
rằng: “John Marshall đã quyết định, vậy hãy để ông
ta thực hiện nó”.
Sự đối địch với Marshall chỉ là một cách thị uy
trong chính sách của Jackson đối với người Da đỏ.
Nhìn chung, miền Tây xem thường người Da đỏ và thèm
thuồng phần đất đai màu mỡ của họ. Marshall và
người kế vị ông ta, Martin Van Buren, nhiệt liệt
hưởng ứng chính sách đẩy lùi người Da đỏ đến “vùng
đất của họ” xa tận Mississippi. Năm 1830, Jackson
ký vào dự luật tẩy chay người Da đỏ, trong đó cho
phép chính quyền có thể dùng vũ lực nếu cần thiết
74để đuổi các bộ lạc phía Đông. Một biện pháp thật
tàn nhẫn và bất công. Cho dù những vùng đất mới vẫn
có ích và màu mỡ như những nơi cũ, nhưng viêc di
dời cũng đã làm đảo lộn sự bình yên của hàng ngàn
con người. Trên thực tế, đó là những vùng đất thật
tồi tệ và hoàn toàn xa lạ.
Một số bộ lạc miền Nam – Creeks, Chotaws và
Chickasaw – hoàn toàn bị lừa gạt và mua chuộc để ra
đi. Nhưng những người Da đỏ khác thì không. Người
Seminoles ở Florida đã đứng lên và phong trào chỉ
dịu xuống sau Cuộc chiến Seminole thứ hai vốn bắt
đầu từ 1835 và kéo dài đến 1842, chính quyền phải
chi phí từ 40 – 60 triệu đô la. Lúc đầu, người Mỹ
Da đỏ viện đến tòa án liên bang, tuyên bố họ là một
quốc gia riêng biệt không lệ thuộc luật pháp của
75Georgia, và có thiện chí trong vụ kiện Worcester và
Georgia. Năm 1835, chính quyền cố gắng mua chuộc
họ với giá 5,6 triệu đô la trả chi phí cho tiền
ngựa xe, nhà cửa và dọn dẹp lãnh thổ, đề nghị vận
chuyển miễn phí giúp họ chuyển đến vùng đất mới ở
phía Tây. Nhưng hầu hết người Da đỏ đều từ chối sự
sắp đặt này, và năm 1838, chính quyền dùng đến quân
đội Mỹ để trục xuất họ bằng vũ lực. Khi người Mỹ
bắt đầu “đường mòn của nước mắt” với những gì bây
giờ được gọi là Oklahoma, thì tài sản của họ đã bị
nắm giữ bởi chính quyền thối nát và những người da
trắng định cư háo hức mua bán. Khoảng 4000 trong
tổng dân số 15.000 người Cherokees đã chết vì bệnh
tật và đói kém trong chuyến du hành buồn thảm đến
miền Tây. Nhân dân Mỹ, kể cả Ralph Waldo Emerson,
76đã phản kháng chính sách tẩy chay, và báo chí nước
Anh cũng lên án điều này xem đó là “những việc làm
ghê tởm”. Nhưng chúng vẫn được tiến hành không hề
giảm bớt. Một số minh chứng về mối quan hệ giữa da
trắng – Da đỏ ở vùng Bắc Mỹ thể hiện rất rõ tất cả
sự tàn nhẫn của chính sách tẩy chay do những người
theo Jackson thực hiện.
Những cuộc tấn công vào Ngân hàng.
Jackson ghét các ngân hàng – nhất là “Ngân hàng
Mỹ” – còn hơn ghét người Da đỏ. Sau buổi khởi đầu
không may mắn và được giúp thoát khỏi cuộc khủng
hoảng 1819, Ngân hàng thứ hai của Mỹ đã ổn định để
hoạt động hữu hiệu dưới trướng vị chủ tịch thứ ba
của họ, Nicholas Biddle. Ngân hàng cho các thương
gia vay tiền mặt, tiến hành giao dịch với nước
77ngoài, quản lý kiểm tra các tài khoản, đổi tiền
giấy đã quá cũ bằng tiền vàng, quản lý các khoản
tiền gửi của chính quyền liên bang và chuyển các
quỹ của chính quyền từ bang này đến bang khác trong
quốc gia. Điều quan trọng hơn hết đó là ngân hàng
đã làm việc như một ngân hàng trung ương không
chính thức và là bánh xe cân bằng kinh tế. Với tư
cách một ngân hàng thương mại lớn nhất, nó có thể
bắt buộc các ngân hàng các bang hạn chế các khoản
tín dụng khi nó cảm thấy hệ thống kinh tế vận động
quá nhanh hoặc khuyến khích các ngân hàng bang sẵn
sàng cho vay khi hệ thống kinh tế bị trì trệ.
Những hoạt động này tạo nhiều bạn bè cho ngân
hàng. Họ được sự ủng hộ từ nhiều chủ ngân hàng bang
– nhất là ở các tiểu bang nghèo miền Nam và miền
78Tây, kể cả các nhà chính trị quốc gia và các thương
nhân gồm những người thường vay mượn từ ngân hàng
hoặc sử dụng trong các dịch vụ ngoại thương. Tuy
nhiên, sự ủng hộ này không phải lúc nào cũng hoàn
toàn không vụ lợi. Nhiều chủ tòa soạn và một số
nhân vật nổi tiếng nhất trong chính quyền – kể cả
Daniel Webster, Henry Clay, và một số người theo
Jackson – đều có những khoản thanh toán ở ngân
hàng. “Daniel thượng đế”- người thường xuyên ghi
nợ, là người đặc biệt phụ thuộc vào ngân hàng một
cách trơ tráo nhất, liên tục yêu cầu “người hầu
cận” của ông ta phải luôn được “đổi mới và tỉnh
táo”.
Ngân hàng cũng có nhiều kẻ thù nguy hiểm. Một số
thương nhân đầu cơ và hung hãn gặp trở ngại với
79những chính sách tín dụng bảo thủ chung chung. Tuy
nhiên, đối thủ quan trọng nhất của họ vẫn là các
nhà nông như Thượng nghị sĩ Thomas Hart Benton của
Mis-souri, người luôn phàn nàn tất cả các ngân
hàng.
Hầu hết những người miền Nam và miền Tây đều thích
“tiền kim loại” và họ tin rằng việc ngân hàng phát
hành loại tiền giấy là hành động dại dột và xấu
xa. Họ đề nghị chọn vài loại với lợi nhuận không
lấy từ tiền vàng và tiền bạc – loại tiền của riêng
Chúa – nhưng lại không hứa chắc sẽ thanh toán. Một
điều khoản trong chế độ hành pháp ở Alabama ghi rõ:
“Ngân hàng và tiền giấy trái ngược với công lý,
đạo đức và tôn giáo”. Các nhà làm nông cũng cho
rằng ngân hàng nói chung, và ngân hàng Mỹ nói
80riêng, đã gây nguy hiểm cho tự do của chính quyền.
Với 35 triệu tiền vốn, “ngân hàng khổng lồ” của
Biddle là một tập đoàn lớn nhất quốc gia. Với tầm
vóc như thế, ngân hàng đã tạo một tiềm lực vượt
trội trong hệ thống kinh tế vốn đang bị đe dọa.
Ngân hàng của Biddle được hỗ trợ thêm vai trò theo
dõi sát sao nền kinh tế và có những ảnh hưởng đến
chính trị, dường như rõ ràng nhiều ngân hàng phải
bị triệt tiêu hoặc nó sẽ hủy hoại đất nước.
Hợp đồng 12 năm của ngân hàng đã hết hiệu lực vào
năm 1836. Lo sợ sự chống đối đã bắt đầu nhen nhóm
trong số những người theo Jackson và muốn ngân hàng
tiếp tục phát triển, Biddle đã áp dụng những chính
sách đổi mới của năm 1832. Phương thức đổi mới đã
được Quốc hội thông qua, nhưng Jackson bác bỏ.
81Trong một cuộc công kích gay gắt, Tổng thống đã nói
về những hoạt động của ông trong nhiệm kỳ để chống
lại những nguyên tắc của chính quyền Jefferson cũ.
Ông bỏ qua cuộc tranh luận về vấn đề tiền kim loại
nhưng phản đối kịch liệt việc ngân hàng được các
chủ đầu tư nước ngoài độc quyền quản lý. Jackson
cảnh báo rằng phải cần đến những quyền lực rất lớn
để trừng phạt những kẻ đối lập nếu như họ vẫn bướng
bỉnh không chấp hành. Rõ ràng Tổng thống tin rằng
ngân hàng Mỹ là mối đe dọa cho các tổ chức trong
quốc gia kể cả nhiều đơn vị kinh tế nhỏ, nhưng ông
cũng đã có một động lực cá nhân rất vững. Ông nói
với Van Buren: “Ngân hàng đang muốn giết tôi, nhưng
tôi sẽ giết nó”.
Ngân hàng bỏ ngoài tai làn sóng tấn công của những
82lời chống đối. Biddle gọi thông điệp phản đối của
Jackson là “bản tuyên ngôn vô giá trị”. Dĩ nhiên
Webster cũng phản đối, báo chí của 23 bang đã lên
tiếng, nhiều doanh nghiệp nhà nước và nhiều chủ
ngân hàng bang cũng vậy. Ngay lập tức, sự bác bỏ đã
trở thành vấn đề mang tính chất phe đảng chủ yếu
trong suốt năm bầu cử Tổng thống 1832, những người
ủng hộ Jackson đã xem đây là một cuộc tấn công vào
sự độc quyền và kẻ thù của họ cũng lên án đây là
một ví dụ điển hình của tính chuyên chế trong chế
độ của vua Andrew.
Đảng Whigs và Đảng Dân chủ. Cùng thời gian này, hệ
thống phe đảng thứ hai được hình thành. Đảng của
Jackson giờ bắt đầu được gọi là Đảng Dân chủ, là
một nhóm không đồng nhất vốn có sự khác biệt về
83cương lĩnh và nguyên tắc trên từng bang trong quốc
gia. Đảng Dân chủ chủ yếu thiên về hạ thấp mức
thuế, tiền kim loại, chống việc độc quyền và chính
sách không can thiệp vào kinh tế của chính quyền.
Năm 1830, chính Jackson đã phản đối việc liên bang
chiếm làm của riêng đường Maysville ở Kentucky,
trên cơ sở Hiến pháp đã không hỏi ý kiến những
người có thực quyền của chính quyền quốc gia để tài
trợ cho những cải tiến hoàn toàn nội bộ trong từng
bang riêng lẻ. Nhưng ở một số nơi – ví dụ như New
York, New England, và Pennsylvania
– những người theo Jackson ủng hộ các ngân hàng,
bảo vệ bộ thuế, và hỗ trợ chính quyền trong những
cải tiến nội bộ. Trong việc cải tiến nội bộ, hành
động của Jackson có nhiều mâu thuẫn. Mặc dù ông ta
84phản đối dự dự luật đường Maysville – một số người
cho là dự án này chủ yếu có lợi cho bang sở tại của
Henry Clay – nhưng ông ta vẫn phê chuẩn các chi
phí khác cho dự án này.
Những nguyên tắc về kinh tế của Đảng Whigs thống
nhất hơn. “Hệ thống Mỹ quốc” của họ được kêu gọi để
bảo vệ luật thuế, hỗ trợ liên bang trong những cải
tiến nội bộ và là một ngân hàng quốc gia có thế
lực. Trong lời tuyên bố đầu tiên của Clay năm 1824,
hệ thống Mỹ quốc đề ra dự án lập một chính quyền
quốc gia chuyên chế để hỗ trợ thương mại, bảo vệ
người lao động công nghiệp tránh sự cạnh tranh rẻ
mạt của nước ngoài và tạo một thị trường an toàn
cho các nông trại trong những thành phố đang phát
triển.
85Đảng Whigs và Đảng Dân chủ cũng có những khác biệt
về các ý tưởng chính trị. Đảng Dân chủ tuyên bố sẽ
trở thành “đảng của nhân dân” và có sự chân thật
trong lời tuyên bố này. James Silk Buckingham, một
du khách quý tộc người Anh, liên tục nghe những
cuộc công kích về đất đai, những vụ va chạm, những
người… mong muốn… tịch thu tài sản của người giàu
đem chia cho người nghèo”. William Seward, một nhà
lãnh đạo Mỹ chống Jackson đã viết: những người theo
Jackson phân chia các phe đảng theo sự khác biệt
của các tầng lớp: “Chúng sẽ cùng với họ ủng hộ
người nghèo chống lại kẻ giàu”.
Tuy vậy, sự khác biệt giữa các đảng cũng không bị
thổi phồng quá mức. Ở New York, Đảng Dân chủ khởi
đầu công kích bằng “Locofocos”, một phe cánh hữu
86hoàn toàn triệt để của riêng đảng mình, “chống lại
Thiên Chúa giáo”, “điền địa” và “những xấu xa của
chính trị”. Hơn thế nữa, Đảng Dân chủ của Jackson
cũng như Đảng Whigs, trong những năm này đã mạnh
dần lên nhờ vào thành công và thịnh vượng của các
luật gia, thương nhân và những vị quý tộc, tuy vậy,
hầu như chắc chắc những người theo Jackson vẫn có
gì đó ít mang tính chất quý tộc hơn Đảng Whigs.
Thực ra yếu tố “dòng dõi quý tộc” của những người
theo Đảng Whigs vượt trội hơn Đảng Dân chủ. Những
người vô cùng kiêu ngạo này thường bày tỏ sự khinh
miệt đối với “đám tiện dân” được cho là chống đối
chính trị. Nhưng nhìn chung, họ đã không hành động
theo cá nhân. Các nhà lãnh đão của Đảng Whigs –
Clay, Webster và Seward – là những nhân vật nổi
87tiếng vốn được các cử tri đưa lên và bợ đỡ giống
như Jackson, Van Buren, Marcty và những người lãnh
đạo khác của Đảng Dân chủ. Sự khinh miệt của Đảng
Whigs đối với những cử tri bình thường không theo
đảng phái mạnh đến nỗi một chính trị gia trẻ tuổi
nhiều tham vọng người Illinois như Abe Lincoln khó
mà tìm được sự đồng tình cho dòng dõi không rõ ràng
của mình và sự đồng cảm đối với những người bình
thường nhưng yêu mến ông, đối với Henry Clay và
niềm tin về chính trị của Đảng Whigs.
Có nhiều khác biệt về ý thức hệ của các đảng phái
và các tầng lớp một cách rõ ràng, vì vậy, mỗi đảng
đều thu hút cử tri từ nhiều tầng lớp, khu vực và
nghề nghiệp khác nhau. Rõ ràng, nếu tất cả các tá
điền và người làm công ăn lương đều bỏ phiếu cho
88Jackson và người kế vị của ông ta – đảng được xem
là của nhân dân – thì những đối thủ sẽ không bao
giờ thắng được; vì xét cho cùng, các tá điền và
người làm công chiếm đại đa số trong quốc gia.
Nhưng những đối thủ của Jackson không dễ thất bại.
Nhiều nông dân và công nhân từ chối không bỏ phiếu
cho Đảng Dân chủ. Trong các thành phố, nhiều “thợ
máy” bỏ phiếu cho Đảng Whigs hoặc cho “các đảng của
giai cấp công nhân” vốn ủng hộ các biện pháp
“triệt để” như luật giới hạn giờ làm việc đến 10
giờ và bãi bỏ việc các cử tri nam giới phải tham
gia lực lượng dân quân khá phiền phức. Giai cấp
nông dân cũng vậy, đã bị chia rẽ, nhiều cử tri
thuộc vùng nông thôn, nhất là New England và Yankee
– những vùng đã định cư thuộc Tây Bắc cũ, đã bỏ
89phiếu cho các đối thủ của Đảng Dân chủ. Đảng Whigs
mạnh nhất ở New England và những nơi dân New
England đã định cư, họ cũng nhận được sự ủng hộ
trên toàn quốc gia. Ở miền Nam, các tá điền thuộc
nông trại nhỏ bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ; nhưng
những đồn điền lớn – bất chấp sự thiên vị về bộ
thuế của Đảng Whigs – phần lớn họ đều bỏ phiếu cho
Đảng Whigs vì họ cần vay vốn của ngân hàng với lãi
suất thấp để buôn bán sợi bông của họ. Các tá điền
ở phía Tây vốn hăm hở với những cải tiến nội bộ,
cũng bị thu hút về Đảng Whigs. Trong các thành phố
với “hệ thống Mỹ quốc” của Đảng Whigs cũng thu hút
các nhà sản xuất và những người làm công trong
ngành công nghiệp.
Tuy nhiên, theo nhiều học giả, điều gì đã thực sự
90làm cho Đảng Whigs và Đảng Dân chủ có sự khác biệt
rõ ràng về văn hóa và tôn giáo. Bằng chứng là ở một
số bang như Michigan và New York, Đảng Dân chủ
không can thiệp vào các vấn đề thuộc tôn giáo, đạo
đức cũng như các sự kiện kinh tế, ngược lại, Đảng
Whigs lại có quyền quyết định kiểm soát các hành
động và thói quen cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy
Đảng Whigs thường tán thành việc không áp dụng luật
vào ngày Chủ nhật trong công việc và khăng khăng
đòi chính quyền không giao nhận thư trong ngày lễ
Sabbath. Họ cũng ủng hộ các luật cấm uống rượu hoặc
khuyến khích dùng có điều độ. Ngược lại, Đảng Dân
chủ lại tin rằng uống rượu và làm việc trong ngày
Chủ nhật là vấn đề riêng tư, không phải cộng đồng.
Những quan điểm bất đồng này cũng làm cho Đảng
91Whigs ở phía bắc căm ghét nhiều hơn chế độ nô lệ
của Đảng Dân chủ. Các cử tri của Đảng Whigs ở phía
Bắc thường nhìn những nô lệ như kẻ có tội và có
những hành động tội lỗi khác, vì không có sự kiểm
soát của chính quyền; tuy nhiên, hầu hết những
người theo Đảng Dân chủ miền Bắc đều tin rằng chủ
nghĩa nô lệ là đáng trách, không có một việc làm
nào của chính quyền mà những người miền Nam thực
hiện đúng với những thể chế địa phương của họ.
Những quan điểm này quay trở lại thu hút các nhóm
văn hóa và tôn giáo khác. Chính sách của Đảng Whigs
lôi cuốn những người đạo Tin Lành theo sách phúc
âm, họ xem chính trị như một đấu trường để sửa đổi
phẩm hạnh có hiệu quả. Đảng Dân chủ lại thu hút
những người Thiên Chúa giáo, những người theo Tân
92giáo và những người có tư tưởng tự do – tất cả các
nhóm vốn được chính quyền nuông chiều vẫn tiếp tục
theo đuổi chính sách không can thiệp vào quyền hạn
riêng tư và bác bỏ những việc làm dựa trên đạo lý.
Vì vậy, nhiều người New England lệ thuộc vào các
giáo phái theo kinh Phúc âm, những nơi có những
người New England đều bỏ phiếu cho Đảng Whigs.
Trước đó không lâu nhiều người nhập cư là người
Thiên Chúa giáo và họ thường theo đảng của Jackson.
Nhưng đến gần cuộc tuyển cử 1832, nhiều người lỗi
lạc trong số này bắt đầu xuất hiện. Các đối thủ của
Jackson, gặp nhau tại hội nghị ở Baltimore, đã bổ
nhiệm Clay. Những người ủng hộ Jackson quay trở lại
ủng hộ vị anh hùng của họ, nhưng lại chọn Martin
93Van Buren làm người cố vấn thay thế Calhoun. Phó
Tổng thống lúc bấy giờ không được Jackson hậu đãi
nữa. Vợ ông ta, một kẻ hợm hĩnh người Florida, đã
làm nhục Peggy Eaton, vợ của Bộ trưởng Bộ chiến
tranh John Eaton, người mà bà ta cho rằng là một ả
phóng túng. Tổng thống thích Peggy, ngoài ra, ông
còn nhớ đến Rachel yêu quý của ông đang khổ sở dưới
những lời đàm tiếu của kẻ thù, ông cảm thông với
nỗi tuyệt vọng của bà ta. Ông cũng rất giận dữ về
việc Phó Tổng thống không hoàn thành nhiệm vụ bảo
vệ vùng miền Nam Caro-lina. Ngoài hai đảng chính,
Hội Tam điểm cũng nằm trong lĩnh vực của William
Wirt thuộc Maryland cũng như các ứng cử viên của
họ.
Vấn đề chủ yếu của chiến dịch có vẻ như chỉ nhằm
94vào ngân hàng của Mỹ và sự chống đối của Jackson
với bản dự luật tái thiết. Trên thực tế, những tính
cách vẫn là vấn đề quan trọng đối với các cử tri.
Hoặc là họ hoàn toàn bị mê hoặc bởi Clay – “Một kẻ
gian ngoa lõi đời”, “Harry của miền Tây”, “một cậu
bé kiên cường trong gian khổ” – hoặc khó chịu vì
tính cách hòa nhã của ông ta, cách uống rượu, cách
chơi bài…Đối với một số cử tri Jackson là một vị
anh hùng vĩ đại của đất nước; nhưng đối với kẻ
khác, ông là vua Andrew hống hách và hung dữ. Cuối
cùng, Tổng thống đã dành được chiến thắng tuyệt
đối, với Clay thứ nhì và Wirt tội nghiệp thứ ba.
Thăng trầm của nền kinh tế. Sự kiện nổi bật trong
nhiệm kỳ thứ hai của Jackson là cái chết từ từ và
khốn khổ của Ngân hàng Mỹ. Tổng thống giải thích
95chiến thắng trong cuộc tuyển cử của ông như là một
sự ủy nhiệm để ngay lập tức phải chống lại ngân
hàng, mặc dù thể chế của nó đã tồn tại từ hơn bốn
năm qua. Xem nhẹ lời khuyên của hai Bộ trưởng Bộ
tài chính, ông đề nghị rút hết các khoản tiền của
chính quyền ra khỏi ngân hàng, sau đó ông gửi các
quỹ này vào 23 ngân hàng có uy tín ở các bang, nhất
là các ngân hàng được Đảng Dân chủ ủng hộ, chúng
là những ngân hàng được Đảng Whigs gán cho cái tên
“ngân hàng làm kiểng”.
Biddle xem những việc làm đầy hận thù và cương
quyết trả đũa của chính quyền là không đáng giá.
Ông viết cho bạn bè của mình: “Tôi có cách riêng
của tôi, tất cả các ngân hàng khác và ngân hàng
thương mại có thể bị phá sản, nhưng ngân hàng Mỹ
96thì không”. Trong nhiều tháng sau đó, BUS giảm các
khoản cho vay và nói những khoản này chưa giải
quyết xong, gây ra cuộc khủng hoảng tài chính làm
cho các thương gia phải khốn đốn. Trên thực tế
Biddle đã có vài thay đổi. Với ngân khố 10 triệu đã
rút khỏi kho dự trữ, ngân hàng ký một khế ước.
Nhưng những quyết định của Biddle nhằm chứng minh
sự quan trọng của ngân hàng đối với sự thịnh vượng
của nền kinh tế đã làm ông ta quên mất những nguyên
tắc trước kia của ông ta về trách nhiệm và quản lý
tài chính linh hoạt trong cộng đồng, và ông ta đã
ký hợp đồng nhanh hơn và xa hơn mức cần thiết.
Chẳng bao lâu điều tồi tệ đã xảy ra. Hợp đồng của
Biddle không tồn tại đủ lâu để giúp làm dừng cuộc
khủng hoảng tài chính. Nhưng với ngân hàng nước Mỹ,
97việc điều chỉnh tín dụng quốc gia và hỗ trợ tiền
mặt không còn nữa, nguồn cung cấp tài chính chủ yếu
đã bị kiềm hãm. Các ngân hàng kiểng”, với ngân
sách hàng triệu trong kho dự trữ, đã bắt đầu cho
vay rộng rãi. Các thương nhân và những nhà đầu cơ
mau chóng đầu tư số tiền họ đã vay vào những vùng
đất phía Tây, trong khi đó các bang nhiều tham vọng
cũng tập tễnh lên kế hoạch xây dựng kênh đào. Các
bang nhiều kinh nghiệm lại có xu thế tăng vọt mọi
loại giá cả, nhất là giá đất, thu lợi nhuận cao.
Jackson hốt hoảng. Ông ta không đốn ngã “con quái
vật” của Biddle chỉ để thay thế nó bằng một hệ
thống ngân hàng càng tắc trách và nguy hiểm hơn.
Jackson cũng không muốn thấy những dấu hiệu của
ngân hàng Mỹ vốn được khắc phía sau đồng tiền vàng
98nhưng lại thay thế nó bằng “sự liều mạng” của một
trăm ngân hàng mà khả năng thanh toán chỉ là điều
mơ hồ. Để đặt dấu chấm hết cho những tiếng đồn
không hay, Tổng thống cho phát hành loại tiền đồng
xu vào tháng 7 năm 1836. Ông tuyên bố, từ nay trở
đi, chính quyền liên bang chỉ chấp nhận tiền vàng
và bạc để thanh toán đất công.
Tiền đồng xu không có giá trị gì cả. Dân chúng bất
ngờ không còn tin vào những dấu hiệu trên đồng xu
do ngân hàng phát hành và đấu tranh đòi thay đổi.
Hy vọng nắm giữ được tiền vàng và bạc, các ngân
hàng cố gắng kêu gọi các khách hàng vay vốn. Các
chủ nợ khác, vì lo sợ cho tương lai, không dám cho
vay nhiều hơn và kiểm soát chặt các khoản nợ. Kết
quả là một sự hoảng loạn kinh hoàng làm ngừng trệ
99thương mại và hàng hóa tụt giá thê thảm. Một thập
niên đầy khó khăn nối tiếp.
Các học giả không quy tội cho đồng tiền xu về sự
hoảng loạn và tình trạng trì trệ kế đó mà lại cho
rằng chính sự rớt giá của sợi bông trên thị trường
quốc tế mới là thủ phạm chính. Những người ủng hộ
Jackson lại đổ lỗi cho “sự quá tải của ngân hàng và
thương mại”.
Nhưng nhiều người đương thời lại quy tội cho Tổng
thống, họ lên án những chính sách “tiền kim loại”
và chống ngân hàng của ông ta. Đối với Đảng Dân
chủ, thật may mắn, nền kinh tế sụp đổ không ảnh
hưởng chút gì đến họ cho đến năm 1837, và vì vậy
cũng không ảnh hưởng gì đến cuộc bầu cử Tổng thống
năm 1836.
100NỀN CHÍNH TRỊ SAU JACKSON
Chính quyền của Van Buren. Cuộc tranh chấp năm
1836 là một sự kiện đầy rối ren. Đảng Whigs, chưa
phải là một đảng vững mạnh, đã chọn lọc các ứng cử
viên ở nhiều vùng, bao gồm Webster của
Massachusette và Hug Lawson White của Tenessee.
Chiến lược của họ, do Biddle vạch ra, đó là vận
động mạnh các ứng cử viên trong một vùng riêng
biệt, với hy vọng rằng (như năm 1824) người ứng cử
sẽ được đưa vào Hạ nghị viện. Will-iam Henry
Harrison, cựu thống đốc của lãnh địa người Da đỏ,
tiếp nhận sự bổ nhiệm của Hội Tam điểm. Đảng Dân
chủ có tổ chức tốt hơn, theo truyền thống quy định
người lãnh đạo phải đã trải qua hai nhiệm kỳ, đã bổ
nhiệm Phó Tổng thống Van Buren. Quy ước của họ
101không chấp nhận một bản cương lĩnh chính thức,
nhưng Van Buren đã trịnh trọng hứa rằng ông ta sẽ
tiếp bước Jackson. Với luận điểm này, ông ta đã
giành được chiến thắng dễ dàng vào mùa thu.
Tổng thống vừa mới đắc cử trong tình trạng nền
kinh tế đổ sụp. Trong phiên họp đặc biệt, Van Buren
kêu gọi Quốc hội giải quyết khẩn cấp, nhưng lại đề
nghị một kế hoạch chấm dứt mọi liên kết giữa chính
quyền với ngân hàng, kể cả trung ương lẫn ngân
hàng kiểng. Trong bài phát biểu cổ điển về chính
sách tự do kinh doanh, cho phép sự độc quyền, ông
nhấn mạnh rằng chính quyền “không dự định ban ân
sủng đặc biệt cho những cá nhân hay bất cứ tầng lớp
nào tạo ra các quy lệ cho nông nghiệp, sản xuất
hay thương mại, cũng như cũng sẽ không tham gia vào
102việc làm này.… Chính quyền càng ít can thiệp vào
những hoạt động cá nhân càng tốt vì sự thịnh vượng
chung”.
Phản ứng e dè của Tổng thống mới thuộc Đảng Dân
chủ hỗ trợ thêm cho nhãn hiệu “chính sách tự do
kinh doanh” vốn đang được gán cho những người theo
Jackson. Nhưng cho dù đã bác bỏ kết luận rõ ràng
này, những người theo Jackson trong các bang vẫn lờ
đi cách xử thế của Van Buren. Ở Massachusette và
Pennsylvania từng bước cứu gỡ cho nền kinh tế bằng
cách hỗ trợ rộng khắp đến các dự án kênh đào và
đường xe lửa, ban nhiều đặc quyền cho các tập đoàn
mới. Hầu hết các bang phía Tây và miền Nam không
quen với những chính sách như thế, nhưng họ không
vì những lý do triết lý mà kém hỗ trợ cho những
103nhóm doanh nghiệp bị phá sản. Một học giả hóm hỉnh
đã nói rằng: trong nhiều hạt của quốc gia, những
người theo Jackson đã có “bàn chân của Clay” và hơi
ngại ngùng khi chống lại sự hỗ trợ cho các hoạt
động kinh doanh. Việc ngăn cản là thiết thực. Đã
quá nghi ngờ các dự án kênh đào và đường sá mà họ
đã đỡ đầu trong suốt thời kỳ thịnh vượng, các bang
phía Tây và miền Nam đang tìm ở đó những tiền lãi
khó đòi. Cuối năm 1842, chín bang đã bị vỡ nợ.
Những năm còn lại trong nhiệm kỳ không may mắn của
Van Buren, các chính trị gia vẫn luôn lo lắng về
kinh tế và thể chế kinh tế. Để hỗ trợ cho kho bạc
trong suốt cuộc khủng hoảng, Quốc hội đã chấm dứt
các chính sách phân phối đến các bang những giá trị
thặng dư xuất phát từ thuế hàng hóa nội địa, mức
104thuế và mua bán đất đai. Năm 1837, Van Buren đề
xuất một kế hoạch lập một kho bạc liên bang riêng
không phụ thuộc vào ngân hàng. Kế hoạch thể hiện
mối nghi ngờ các ngân hàng của những người theo
Jackson và trên giấy mực, dường như đối với Đảng
Whigs đó là một hệ cổ xưa vốn đã không còn tồn tại
trong nước, nó không có một bánh xe cân bằng tài
chính hay một phương cách hiệu quả để điều chỉnh
ngân hàng các bang. Đảng Whigs và Đảng Dân chủ
chiến đấu để khắc phục hậu quả trong suốt năm 1840,
khi những người theo Đảng Dân chủ trong Quốc hội
cố gắng sắp xếp để thành lập Hệ thống tài chính độc
lập. Dưới phương án này, kho bạc đòi hỏi tập hợp
và giữ thu nhập của liên bang và chi tiêu của họ
vào các nhu cầu riêng mà không dựa vào những ngân
105hàng cá nhân. Hơn nữa, chính quyền cũng thực hiện
giao dịch với nhân dân – lương bổng, thuế, các mức
thưởng v.v… - giờ đây đều giới hạn trong tiền vàng
và bạc.
Đảng Whigs nắm quyền lực. Càng đến gần cuộc bầu cử
Tổng thống 1840, các cuộc vận động bình thường cho
vị trí này cũng bắt đầu. Không kể đến tiếng tăm
không bình thường và thời điểm tệ hại của mình, Van
Buren cũng có vài đối thủ trong số những người
theo Đảng Dân chủ. Đối với Đảng Whigs, người được
lựa chọn hợp lý là Clay, họ đã lựa chọn một người
nhận định rất rõ những cuộc chiến chính trị trong
quá khứ và có những quan điểm rõ ràng. Trong hội
nghị đầu tiên của Đảng Whigs vào tháng 12 năm 1839,
những người đại diện đã làm ngơ Clay. Thay vào đó
106họ lại chọn William Henry Harrison, vì trong trường
hợp với một đảng yếu hơn, họ sẽ quay trở lại với
người không thuộc đảng phái nào và không quan tâm
đến chính trị nhiều.
Dù khi đó Harrison đã 67 tuổi, ông vẫn có một lợi
thế riêng. Ông là người đầu tiên “có giá trị nhất”.
Là người sinh ra ở miền Nam, chắc chắn ông sẽ
giành được nhiều số phiếu ở miền Nam. Ông cũng là
một anh hùng quân sự – đã đánh bại các lực lượng
của Tecumseh ở Tippecanoe năm 1811 và sau Jackson,
Đảng Whigs có lý do để nhận ra những lợi thế của
một người nổi tiếng về quân sự. Điều quan trọng hơn
hết đó là vì Harrison không biết những nguyên tắc
chính trị. Đối với một đảng đã từng thất bại khi
ứng cử những nhân vật điển hình nhất của mình thì
107sự mù mờ trong quan điểm của Harrison rõ ràng là
một điều đáng quý.
Chiến dịch đã bộc lộ cách thức làm thế nào Đảng
Whigs thích nghi được với tinh thần đảng phái chính
trị tinh vi vốn đã tồn tại từ năm 1828. Ứng cử
viên, kể cả những người lãnh đạo đảng, đều phải
kiềm chế bày tỏ ý kiến riêng của mình trong bất kỳ
cuộc tranh luận nào. Nicholas Biddle khuyên “Hãy để
Harrison nói không phải chỉ một từ về những nguyên
tắc hay tín điều của ông ta. Không để ủy ban, hội
nghị hay thành phố moi từ ông một từ riêng lẻ về
những gì ông ta nghĩ hay làm trong tương lai”. Vấn
đề chủ yếu của Đảng Whigs, ngoài việc là ứng cử
viên, còn là một nhân vật thuộc dòng dõi quý tộc.
May mắn thay, một đảng viên Đảng Dân chủ lỗi lạc
108nhận xét sơ lược rằng – nếu Harrison sống với một
khoản tiền trợ cấp, có một thùng rượu táo và một
căn nhà ván, ông ta sẽ không bao giờ tranh cử Tổng
thống – đóng tiền bảo lãnh để được tạm tự do bên
ngoài. Ngay lập tức, Đảng Whig nhận rõ được ngụ ý
khoa trương màu mè trong tính cách. Mô tả tài sản
của Harrison như một người đàn ông đơn giản và thực
sự dân chủ, trong khi đó họ lại vẽ hình tượng Van
Buren như một người quý tộc đầy kiêu căng ngạo mạn
sống trong lãnh địa của ông ở Kinderhook, New York.
Bài hát dành cho cuộc vận động của Đảng Whigs:
Tippecanoe không có xe ngựa để đi, Không có lâu
đài cẩm thạch để ông ta sống
Không có nhiều vàng bạc, không có nhiều quần áo
đẹpNhưng ông ta có một tài sản lớn hơn những thứ
109nàyTình yêu tổ quốc, yêu tự do, hạnh phúc và chân
lýĐó là những tài sản và định mệnh của Tippecanoe.
Nói cách khác:
Martin hãnh diện tiến lên phía trước trong niềm tự
hào chói lọi của ông ta
Mở rộng bờ cõi đến bìa Kinderhook
Nóc nhà của lâu đài tráng lệ trên đầu ông ta Và
bàn ăn với những món ngon đang chờ sẵn;Nhưng ngôi
nhà ván chứa tình yêu tổ quốc thật sự
“Vẫn là ngôi nhà của vị anh hùng của chúng ta,
Tippecanoe mạnh mẽ!”.
Lần đầu tiên, cuộc vận động “Ngôi nhà ván và thùng
rượu táo” đã đưa một đảng chính trị đi đến thành
công bằng sức mạnh của quảng cáo và tuyên truyền
nhằm bán một ứng cử viên cho nhân dân Mỹ. Đảng
110Whigs trang bị chải chuốt cho người ủng hộ như
những người Da đỏ để quảng cáo chiến thắng của
Harrison qua cuộc chiến Tecumseh. Họ phân phát rất
nhiều thùng rượu táo để thỏa cơn khát của các cử
tri. Những công nhân theo Đảng Whig tổ chức những
cuộc diễu hành thật lớn với nhiều băng rôn, biểu
ngữ khổng lồ, đuốc và cờ rừng rực.
Số phiếu quá lớn – hầu như nhiều hơn khoảng 60% so
vớn năm 1836 – và ủng hộ mạnh cho Đảng Whig.
Harrison và cộng sự của ông ta, John Tyler người
Virginia, chiếm được số phiếu của 19 trên 26 bang
với khoảng 53% cử tri yêu mến, một con số cao đến
mức không bình thường trong giai đoạn này. Các đối
thủ đã thành công trong nhiệm vụ khó khăn là loại
được vị Tổng thống đương thời và chứng minh được
111tầm quan trọng của chế độ đảng phái hồi sinh mới.
KẾT LUẬN
Năm 1840 hai đảng chính trị mới ra đời. Sau một
khoảng thời gian khá dài đủ để thấy chính quyền bảo
trợ cho cộng đồng những người quý tộc, nhân dân
vẫn khăng khăng giữ ý kiến riêng. Sự thay đổi không
phải do những việc làm của Jackson; nó đã bắt đầu
từ nhiều năm trước, trong nhiều tình huống. Jackson
chỉ là người hưởng lợi từ nó, không phải là tác
giả.
Hai đảng mới dường như cũng song song với triều
đại của Hamilton và Jefferson. Đảng Whig và Đảng
Dân chủ có vẻ ngoài cũng giống như nền cộng hòa của
liên bang và Jefferson – nhưng không có đầu tóc
rắc phấn và quần ống túm với đầu gối bọc nhung.
112Phân tích kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy trên thực tế có
sự khác biệt. Không có đảng nào liên kết mật thiết
với một tầng lớp duy nhất như những người tiền
nhiệm của họ. Có một khác biệt chủ yếu trong các
đảng xã hội: Đảng Dân chủ có thể giành được sự ủng
hộ của nhiều nông trại nhỏ hơn Đảng Whigs, và vì
các nông trại nhỏ chiếm phần lớn dân số Mỹ, vì vậy
họ là một đảng có ý nghĩa nhất định trong cộng đồng
dân cư. Nhưng chúng ta không nên quá chú trọng đến
khuynh hướng này. Trong một thời đại được cho là
dân chủ hóa, cả hai đảng phải chấp nhận – hoặc tỏ
vẻ chấp nhận – tiếng nói của “nhân dân tối cao”.
Hai tổ chức đảng mới không khác biệt nhiều về ý
thức hệ, các đảng cũ cũng vậy. Họ có khác về ngân
hàng, mức thuế và cải cách nội bộ; nhưng các vị
113lãnh đạo của họ có vẻ thực tế hơn và dễ dãi hơn
đảng Liên bang và đảng Jefferson. Tính khẩn cấp của
hệ thống đảng thứ hai đánh dấu sự phát triển trong
sự đồng nhất về chính trị thực tế; cả hai đảng đều
tránh những quan điểm ý thức hệ cực đoan và cố
gắng gần gũi với trung tâm chính trị. Khuynh hướng
này vẫn tiếp tục phát huy trong các chính sách
chính trị của xã hội.
Chuyến đến thăm và khởi hành ở Wash-ington vào
ngày 4 tháng 3 năm 1829, thực ra đã báo hiệu điều
gì đó rất quan trọng, nhưng không phải như bà Smith
và Thượng nghị sĩ Webster tin: mà đó là chiến
thắng của Jack-son không dập tắt được cuộc cách
mạng về chính trị và xã hội, nhưng nó đã nới lỏng
được cơ cấu chính trị cứng nhắc của thời đại. Bằng
114cách từ chối thừa nhận giai cấp quý tộc của triều
đại Virginia, những người theo Jackson đã phục hồi
cuộc sống chính trị cho nước Mỹ. Sau 1828, đất nước
một lần nữa lại có chế độ hai đảng phái đầy năng
động và hiệu quả, sự thay đổi đã làm cho chính
quyền quốc gia đáp ứng nhiều hơn những nhu cầu và
mong muốn của dân chúng. Những gì bà Smith và
Thượng nghị sĩ Webster đang thấy chỉ là sự trở lại
của các đảng phái đối với đời sống chính trị của
nước Mỹ.
115