Tiểu sử tác giả
Đôi nét về Alexandre Dumas và Ba người lính ngự
lâm
Một ngày năm 1842, một con người to lớn tràn
trề sức lực hể hả bước vào phòng đọc thư viện
Mác-xây và tự giới thiệu: Alexandre Dumas.
Người thủ thư bối rối vì trọng vọng. Danh tiếng
của Dumas lúc này đã vang dội. Ông mượn "Những hồi
ký của ông D' Artagnan" xuất bản năm 1704 và mượn
luôn cả một bộ sách có tên: "Richelieu, Conbe và
Majaranh(1). A. Dumas đã quên phắt không đem trả bộ
sách đó. Một chi tiết rất nhỏ nhặt không đáng để ý
nếu không có chuyện từ mấy cuốn sách ấy sinh ra
cuốn truyện tuyệt vời "Ba người lính ngự lâm".
Năm 1842 A. Dumas tròn bốn mươi tuổi, tức ông
1sinh năm 1802, cùng năm sinh với Victo Hugo, mà
Hugo đã viết: "Thế kỷ ấy đã được hai năm" (Ce
siècle a deux ans).
Ngày 24 tháng bảy năm 1802, viên tướng của phái
cộng hòa thời quốc ước, Thomas Alexandre Dumas gửi
cho tướng Bruyle bức thư ngắn nội dung như sau:
"Bruyle thân mến, tôi vui mừng báo tin cho anh, vợ
tôi sáng hôm qua đã sinh một bé trai to lớn, nặng
khoảng 4 kg rưỡi và dài 48 cm. Rồi anh sẽ thấy nó
tiếp tục lớn lên ở ngoài như nó đã lớn lên như thế
ở bên trong". Tướng Dumas yêu cầu bạn đồng nghiệp
làm cha đỡ đầu cho nó. Ông viết thêm ở phần tái
bút: "Tôi lại bóc thư ra để nói với anh là thằng
nhóc vừa đái phọt qua đầu nó. Một sự khơi đầu tốt,
phải không anh!"
2Sáu trăm tác phẩm của "thằng nhóc" được xuất
bản quả đã chứng tỏ sự khởi đầu tốt đẹp.
Là con trai nhà quý tộc, Hầu tước de la
Payơrơri, nhưng người mẹ lại là một nô tỳ da đen,
tướng Thomas là một người tư tưởng cộng hòa rõ rệt.
Ông đã có lần cãi nhau với Napoléon:
"Tôi nghĩ phải đặt lợi ích nước Pháp lên trên
lợi ích một con người, dù người ấy có vĩ đại đến
đâu chăng nữa... Tôi sẵn sàng rời bỏ ngài, nếu ngài
tách rời khỏi nước Pháp",
Vì vậy sau khi lên ngôi, Napoléon đã bạc đãi
ông, ông xin về nghỉ hưu rồi qua đời trong cảnh
túng quẫn khi "thằng nhóc mới được bốn tuổi". A.
Dumas được mẹ vốn là con gái một chủ quán nuôi
dưỡng trong cảnh túng bấn ở Vilê Cốttơrê, không
3được học hành, ngoại trừ mấy bài học vỡ lòng của
một con người tốt bụng là ông mục sư. Nhưng lại học
ở đời rất nhiều, đấy là vô tận những chuyến đi
rừng, những buổi đi săn kể cả săn trộm vô cùng hào
hứng và đọc rất nhiều. Kho sách nhà Dumas chứa đủ
mọi loại sách mà A. Dumas ngốn ngấu một cách say
mê. Mười lăm tuổi cậu theo học thầy Mênétxông, công
chứng viên ở Vilê để làm thư ký hạng ba.
Thư ký công chứng viên hàng ngày viết kín trang
này đến trang khác có dán tem bằng nét chữ rất đẹp
và luôn thở dài nhớ rừng thân yêu. Đồng thời chàng
cảm thấy nảy sinh trong mình sở thích mạnh mẽ đối
với thi ca và sân khấu, rồi liền đó cố viết những
vần thơ ngắn gửi vài cô gái ở Vilê Côttơrê hoặc
Crêpyăng Valoa. Một hôm ở lâu đài Vilê Hêlông,
4chàng làm quen với chàng trai trẻ mười bảy tuổi hơn
mình mấy tháng tên là Ađonphô de Lêvăng tự xưng là
thi sĩ.
Một thi sĩ ư? Alexandre cũng reo thầm trong
bụng: "Ta cũng vậy, ta cũng là thi sĩ". Khi chàng
biết Ađonphô thường lui tới các nhà hát ở Paris và
quen biết Talma, diễn viên bi kịch nổi tiếng, nhiệt
tình của chàng với thi ca và sân khấu trở thành vô
bờ bến. Tất cả đều cùng tồn tại: Paris, sân khấu,
Talma và chàng, một thi sĩ và hiện thời quyết định
đi theo Ađonphô đến Paris và sẽ tự giới thiệu với
Talma. Nhưng còn tiền? Mặc kệ, chàng vừa đi vừa
săn. Một con muông bị giết ở dọc đường đủ để trả
tiền ăn đường.
Talma tiếp chàng và hỏi chuyện:
5- Anh làm gì ở tỉnh nhỏ?
- Tôi không dám nói đâu - Alexandre thở dài -
Tôi là thư ký công chứng quèn.
- Vở vẩn - Talma nói - Không vì thế mà thất
vọng. Coócnây(2) cũng vốn là thư ký biện lý.
Và quay lại các bạn, Talma nói thêm:
- Thưa các vị, tôi xin giới thiệu với các vị một
Coócnây tương lai.
Sau đó, nhờ tướng Foay, một đại biểu Quốc hội
thuộc phái tự do chàng được vào làm thư ký phụ động
ngạch rất thấp cho một văn phòng của Đại Quận công
Oóclêlăng (sau này là vua Louis Philippe). Không
sao, miễn điều đó có nghĩa là được ở Paris. Từ đó
hàng ngày, từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều chàng
biên chép. Những báo cáo. Rồi lại vẫn nhùng báo
6cáo, sau đó chàng trở về căn nhà nhỏ của mình ở khu
phố người Italia, đối diện với nhà hát Hài kịch.
Không lấy gì làm vui lắm. May sao cùng tầng gác lại
có một cô gái xinh đẹp tóc vàng hung, không giữ
gìn lắm. Người ta lân la làm quen hàng xóm láng
giềng. Dumas vốn có óc hài hước làm cho cô Catơrin
Lơbay cười thích thú. Thế rồi ngày 27 tháng 7 năm
1824, một kẻ quyến rũ đàn bà thứ ba ra đời làm ầm ĩ
khu phố người Italia. Người ta gọi nó là
Alexandre. Người ta có nhẽ đã bắt quả tang khát
vọng làm cha của chàng nếu cho chàng biết cái thằng
bé Alexandre đó một ngày kia cũng nổi tiếng như
chàng với tác phẩm Trà hoa nữ.
Dumas có người bạn làm việc cùng phòng tên là
Látxanhơ luôn miệng nhắc:
7- Nước Pháp đang mong chờ một cuốn tiểu thuyết
lịch sử.
Và nhờ có Látxanhơ, Dumas bắt đầu đọc, đúng hơn
là ngốn ngấu rất nhiều tác giả. Đọc thì đọc rồi.
Nhưng còn viết? Cộng tác với Ađonphơ và Rútxô, một
ông già say. Alexandre viết một vở hài kịch dân phổ
thông. Cuộc đi săn và tình yêu. Vở kịch được diễn,
chỉ còn hai câu là đáng nhớ:
Bởi muốn hạ bệ một chú thỏ rừng.
Ta phải là thỏ nhà ưu tú.
Tuy vậy, nó cũng đem lại cho Dumas ba trăm
Frăng. Và chàng mang ngay đến một nhà in để bằng
tiền túi của mình xuất bản một tập truyện. Tập
truyện chỉ bán được đúng bốn bản in. Lúc đó là vào
buổi bình minh của chủ nghĩa lãng mạn. Dumas thề:
8"Chiến thắng hoặc rã họng ra". Rõ ràng chàng vừa
đọc một mẩu chuyện khá bi thảm về hoàng hậu
Crítxtin của Thụy Điển trong tạp chí Tiểu sử phổ
thông. Một chuyện khá rắc rối éo le giữa một hoàng
hậu và một cận thần, sự phản bội, sự trả thù và sự
hèn hạ. Thế là trong đầu Dumas sôi lên một vở kịch.
Một kịch thơ? Ồ không, không có chuyện kịch thơ cổ
điển được Dumas muốn những vần thơ "run rẩy, đánh
mạnh vào lòng người, khủng khiếp" cơ. Một cái gì đó
thoát ra khỏi sự tù túng của luật tam duy nhất vẫn
còn được tôn thờ. Ô mặc xác mấy cái luật khô cứng
đó.
Vở bi kịch Hoàng hậu Crítxtin đã được ra đời như
thế trong một căn phòng nhỏ thuê một trăm Francs
một năm, với ngòi bút của viên thư ký quèn của công
9tước Oóclêăng. Dumas không quen ai ngoài Sácnôđiê.
Nhờ Sác giới thiệu, một buổi sáng chàng được Nam
tước Taylo, cố vấn của nhà Vua phụ trách hí trường
nước Pháp tiếp Taylo nằm nghe Dumas đọc Hoàng hậu
Crítxtin. Tác giả vừa đọc xong Taylo đã nhảy choàng
xuống đất bảo chàng:
- Anh đến ngay nhà hát Pháp đi.
- Lạy Chúa, để làm gì ạ?
- Để đọc qua một lượt, càng nhanh càng tốt.
- Có đúng là tôi sẽ đọc cho hội đồng nghe không?
- Không được chậm hơn thứ bảy tới.
Thứ bảy tới, vở kịch được hoan hô nhiệt liệt.
Dumas ra khỏi nhà hát sung sướng phát điên. Chàng
mới hai sáu tuổi. "Tôi trở về ngoại ô Thánh Denis,
không trông thấy xe, đâm cả vào ngựa, nhảy qua khe
10suối, vì ước lượng sai hụt chân rơi xuống giữa
dòng, về đến nơi mới biết đánh rơi mất bản thảo,
nhưng không hề gì. Tôi đã thuộc lòng.
Vở Hoàng hậu Crítxtin, bị chậm công diễn do kiểm
duyệt không phải là tác phẩm đầu tiên của Dumas
được trình điễn. Trong khi chờ đợi, chàng đã viết
Henri III và triều đình, vở kịch được diễn đi diễn
lại. Đã đến lúc phải lựa chọn giữa nghề thư ký và
nhà hát, chàng quyết định giã từ văn phòng của Đại
Quận công. Nhưng lần công diễn đầu tiên chàng đã
mời "chủ mình", tức vua Louis Philippe tương lai
đến dự.
Lần công diễn ấy đã đạt tới trên mức thành công
một cuộc khải hoàn. Nó không những chỉ tạo nên
những tiếng hoan hô mà còn là một sự mê cuồng. Vở
11kịch kết thúc, khi nghệ sĩ Fiếcmanh lại ra sân khấu
giới thiệu tên tác giả, sự phấn khích đã trở thành
của toàn thể khán giả, đến nỗi Công tước Oóclêăng
"đứng ngây ra" nghe tên người làm thư ký cho mình
trong vòng ba tiếng đồng hồ đã trở thành một trong
những con người danh tiếng nhất thời đại.
Nói đó là một cuộc khải hoàn là nói đến cuộc
khải hoàn của văn học lãng mạn nói chung. "Henri
III và triều đình" còn ra đời trước "Hécnani" của
Hugo, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cổ điển,
Dumas đã mở đường cho Hugo và Vinhy.
Cuộc cách mạng 1830 nổ ra đúng lúc và trở thành
cuộc cách mạng của chính bản thân Alexandre Dumas.
Mang sẵn dòng máu cộng hòa của người cha, A. Dumas
gắn bó cả tâm hồn và thể xác với cách mạng. Ông tự
12mình cầm súng ra chia lửa với quân khởi nghĩa, tổ
chức vệ quốc quân chống Bảo hoàng. Ông viết trong
hồi ký: "Đó là những người của nhân dân mà người ta
đã gạt bỏ sau khi sự nghiệp đã thành công. Sau khi
canh gác ở cửa kho bạc, sắp chết đói đến nơi, họ
đứng ở ngoài đường kiễng chân đất ngó vào đám thực
khách ăn bám của chính quyền trèo trên lưng họ để
leo lên, đang chia nhau chức vụ địa vị và danh
vọng".
Thái độ chính trị ấy của A. Dumas luôn được bộc
lộc trong các tác phẩm của ông, tất nhiên cả ở Ba
người lính ngự lâm. Ba người lính ngự lâm là tập
đầu trong tiểu thuyết bộ ba hơn bốn nghìn trang
viết, tiếp theo là hai tập Hai mươi năm sau và Tử
tước Bragiơlon (còn gọi là Mười năm sau nữa) miêu
13tả xã hội Pháp trong vòng năm mươi năm qua hai
triều đại Louis XIII và Louis XIV, với hai Giáo chủ
kiêm Thủ tướng Richelieu và Mazaranh và Conbe,
Tổng thanh tra tài chính và hoàng hậu Annơ Ôtrítsơ
sau làm nhiếp chính dưới thời Louis XIV.
Mặc dầu giá trị lớn lao của tác phẩm nhưng vì
là tiểu thuyết đăng tải, cho nên không tránh khỏi
những chỗ lầm lẫn trước sau, tính cách có phần đơn
giản sơ lược và lối văn đã gần hai thế kỷ có phần
dài dòng bao biện.
Sáu trăm tác phẩm, một tác giả khổng lồ, một sức
viết khổng lồ, một con người khổng lồ của thời
đại. Sở thích lớn nhất của ông là làm việc. Ông
viết liền ba tháng không nghỉ. Viết xong, ông dừng
lại, đi du lịch. Nhưng từ Italia hoặc từ Tây Ban
14Nha trở về, ông luôn mang theo mấy cuốn mới viết
xong. Khi viết, ông đem hết tâm hồn, tình cảm vào
trong trang viết. Trong Tử tước Bragiơlon, ông để
cho Porthos chết rồi ôm mặt khóc nức nở. Đêm nghe
cha khóc, Dumas con tưởng có chuyện gì sang hỏi bố.
Ông trả lời: "Porthos chết rồi và chết thê thảm
quá!"
Nhưng con người khổng lồ ấy chẳng những có trái
tim nhạy cảm mà còn là một người hết sức khiêm tốn.
Ông thích phi ngựa đến quỵ ngựa và yêu đàn bà.
Dumas đã từng cưới một nữ diễn viên hài kịch trẻ
hơn mình rất nhiều, nàng Ida Feriê, Satôbriăng là
người làm chứng cho cuộc hôn nhân này. Ông từ Praha
về, nơi ông đã từng cầu chúc cho chế độ quân chủ
bị trục xuất. Dumas yêu cầu ông cầu chúc cho vợ
15mình. Satôbriăng nhận lời, tuy không tránh khỏi
liếc nhìn cái nịt ngực của người đàn bà này, và lẩm
bẩm:
- Nhất định tôi cầu chúc cho mọi cái đang rơi.
Bị công khai lừa dối, nhất là bởi bạn mình,
Roger de Beauvoa, Dumas "bỏ vợ", trái hẳn với những
nhân vật của mình, ông làm việc này không ầm ĩ,
thân mật và tốt bụng vô bờ.
Khi về già, ông có được một hạnh phúc không ngờ:
Đứa con trai mà nàng Trà Hoa nữ đã đem đến cho
ông. Alexandre đệ nhất đã đầu hàng trước bước đi
ban đầu của Alexandre đệ nhị. Ông đến dự lễ tặng
hoa và ngồi ở hàng đầu, chính giữa, tràn trề hạnh
phúc trước cả khi người ta gõ lên ba tiếng. Ông bao
giờ cũng mang một bó hoa khổng lồ. Đi dọc theo
16chiều dài của căn phòng, ông hoan hô, ông cười vang
vui vẻ nhìn xung quanh mình. Khi người ta vừa nêu
tên tác giả, ông liền đứng lên, lòng đầy kiêu hãnh
chào mọi người như muốn nói: "Các vị thấy không,
chính con trai tôi đã làm nên chuyện đó!".
Còn Dumas con thì nói:- Cha tôi đó là đứa trẻ vĩ
đại mà tôi đã có khi tôi còn rất bé.
Thật xứng đáng khi Dumas bố nói: Tác phẩm lớn
nhất của tôi là Dumas con!
Tuy nhiên Dumas cha làm việc yếu dần. Cuộc chiến
năm 1870 đã giáng một đòn dữ dội lên ông. Cuối
tháng tám năm ấy, Dumas con thấy ông trở về Diep,
kiệt sức. Ông nói:
- Ta về để chết ở chỗ con đây.
Alexandre đệ nhị kêu khóc. Nhưng mọi sinh lực
17hình như đã rời bỏ Alexandre đệ nhất. Người ta đặt
ông lên một chiếc ghế bành trông ra biển. Một người
đã từng ham thích làm việc như ông, rốt cuộc đã
khám phá ra niềm vui là chẳng làm gì cả. Sáu trăm
tác phẩm xuất bản, ông đã kiếm được cơ man nào là
tiền, nhưng lúc này ông chỉ còn hai đồng Louis
vàng. Ông nói với con trai:
- Người ra cứ bảo cha rất hoang phí. Nhưng đâu
phải thế. Cha đến Paris với hai đồng Louis trong
túi. Con hãy xem trong áo gilê của ta, con sẽ thấy
vẫn còn nguyên hai đồng Louis đấy chứ!
Sáng ngày 4 tháng 12 năm 1870 con trai ông thấy
ông đăm chiêu hơn thường lệ liền hỏi ông. Ông hỏi
lại một câu xé lòng.
- Con có tin có cái gì còn lại của cha không?
18- Có chứ, là cha đấy, con xin thề như vậy.
Hôm sau sáu giờ tối, A. Dumas qua đời. Victo
Hugo viết:
"Ở thế kỷ này không ai được dân chúng mến yêu
hơn A. Dumas. Cái ông gieo mầm, đó là tư tưởng
Pháp. A. Dumas quyến rũ, mê hoặc, làm lợi, làm vui
và dạy dỗ mọi người. Từ tất cả những tác phẩm của
ông, rất phong phú, rất đa dạng, rất sinh động, rất
duyên dáng, rất mạnh mẽ, toát ra một thứ ánh sáng
riêng của nước Pháp!".
Trở thành bạn của độc giả, đó là mong ước của
nhà văn vĩ đại.
Và ông đã làm được điều đó.
Chú thích:
(1) Ba nhà chính trị lớn thời Louis XIII Louis
19XIV.(2) Kịch tác giả cổ điển Pháp thế kỷ 17
20