CONAN DOYLE
SHERLOCK HOLMES TOÀN TẬP
TẬP 3 – PHẦN 1
Nhóm dịch giả: Lê Khánh, Đỗ Tư Nghĩa, Vương Thảo,
Ngô Văn Quỹ, Lê Nhân, Hoàng Cường,
Phạm Quang Trung, Hải Thọ, Bùi Nhật Tân, Thanh
Lộc, Minh Phụng
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
TỤC LỆ Ở DÒNG HỌ MUSGRAVE
Các phòng của chúng tôi luôn chứa đầy những vật kì
quặc liên quan đến Hóa học hoặc đến tội hình sự
nào đấy. Những dị vật này thường ở những nơi không
ngờ tới nhất, như trong chiếc bình đựng bơ chẳng
hạn. Tuy nhiên, giấy tờ của Holmes là những thứ
hành hạ tôi hơn cả. Hiện giờ anh chưa thể đốt
1chúng. Nhưng việc sắp xếp lại giấy tờ, đưa chúng
vào trật tự ngăn nắp thì Holmes chỉ có dũng khí làm
việc đó một, hoặc quá lắm là hai lần trong một
năm. Thế là từ tháng này qua tháng khác, hàng đống
giấy tờ chép tay ngồn ngộn trong tất cả các góc
nhà.
Vào một chiều mùa đông, chúng tôi cùng ngồi cạnh
lò sưởi. Tôi nói bóng gió với Holmes rằng, chừng
nào anh thôi không ghi chép trên cuốn sổ tay của
mình, và giá như anh bỏ ra khoảng một tiếng đồng hồ
ghi chép để làm cho căn phòng có vẻ sinh động hơn
thì tốt biết mấy! Anh thừa nhận sự đúng đắn trong
yêu cầu của tôi. Với vẻ mặt buồn bã, anh lê bước
vào phòng ngủ, lát sau kéo ra một chiếc hòm sắt tây
to tướng. Anh đặt nó giữa phòng, mở nắp ra: Chừng
2một phần ba chiếc hòm chứa đầy những bó giấy được
thắt bằng dải băng màu đỏ.
- Trong này không ít những điều thú vị! - Anh vừa
nói vừa thân ái nhìn tôi.
- Đó là các bản phúc trình về những vụ việc trước
đây của anh phải không? Nhiều lần tôi mong muốn anh
đừng giữ lại những bản ghi chép đã quá lâu ngày.
- Đây thuộc về những trường hợp đã xảy ra trước
khi tôi có riêng một người chép sử.
Rồi bằng những cử chỉ nhẹ nhàng đến âu yếm, anh
rút từng bó giấy ra.
- Không phải mọi vụ việc đều kết thúc tốt đẹp đâu.
Có một vài vụ khó đến lạ lùng. Chẳng hạn như bản
phúc trình về vụ giết Tarleton; công việc liên quan
tới một người buôn rượu vang; câu chuyện về chiếc
3đinh nhôm và bản tường trình chi tiết về cô gái
chân cong. Còn đây... một trường hợp tuyệt vời!
Anh lôi tận đáy hòm ra một chiếc hộp gỗ nhỏ có nắp
xoay, và lấy ra một mảnh giấy nhàu nát, chiếc chìa
khóa cỡ bằng đồng tiền cũ, thanh gậy gỗ được quấn
bằng một cuộn dây nhỏ và ba chiếc vòng sắt gỉ.
- Thế nào! Những báu vật này làm anh thích thú
chứ? - Holmes hỏi và mỉm cười.
- Đây là bộ sưu tập thú vị?
- Rất thú vị! Và lịch sử gắn liền với nó còn khiến
anh thú vị hơn nữa!
- Chẳng lẽ các vật này lại có lịch sử sao?
- Hơn thế nữa, chính chúng là lịch sử.
- Anh muốn nói gì thế?
Sherlock Holmes gom tất cả những đồ vật đó sang
4một bên, buông mình xuống ghế bành rồi bắt đầu nhìn
chúng bằng cặp mắt sáng lên vì hài lòng:
- Đó là tất cả những gì tôi lưu lại trong kí ức về
một việc xảy ra có liên quan tới tục lệ của gia
đình Musgrave.
- Tôi rất muốn biết chuyện này.
Holmes nhạo báng:
- Lưu lại cái thứ đồ bỏ này làm chi? Anh ngăn nắp
lắm kia mà? Tuy vậy, chính tôi cũng muốn đưa nó vào
cuốn biên niên sử của mình. Bởi vì trong đó chứa
những tình tiết làm câu chuyện trở thành độc nhất
vô nhị đối với các ghi chép tội hình sự, không cứ ở
Anh mà còn ở nhiều nước khác nữa. Giờ đây tên tuổi
của tôi đã được nhiều người biết đến. Không chỉ
công chúng mà cả những nhà chức trách cũng coi tôi
5là cấp cuối cùng để giải quyết các vấn đề còn đang
khúc mắc. Ngay từ khi mới quen anh, tôi đã có một
phạm vi hoạt động đáng kể, mặc dầu không thật sinh
lợi nhiều lắm. Cho nên chắc anh không thể tưởng
tượng được là vào thời kì đầu, tôi phải sống thiếu
thốn như thế nào, và tôi phải chờ đợi ngày thành
đạt lâu ra sao! Lần đầu tiên đến London, tôi ở
đường Montague cạnh bảo tàng Anh. Tại đây, tôi dùng
thời gian rảnh rỗi nghiên cứu hết tất cả các lĩnh
vực tri thức có thể giúp ích trong nghề nghiệp.
Thường nhiều người cũng nhờ tôi khuyên bảo, họ tới
do sự giới thiệu của những bạn hữu, vốn cũng là
sinh viên trước đây. Chả là vào những năm sống ở
trường Đại học, người ta đã nói nhiều đến các
phương pháp làm việc của tôi. Công việc của gia
6đình Musgrave là việc người ta nhờ tôi.
Reginard Musgrave cùng học cao đẳng với tôi. Anh
không có gì nổi bật cả. Nhìn bề ngoài, anh quả là
một nhà quý tộc điển hình: Nét mặt thanh tú với cái
mũi cao và đôi mắt mở to. Thật ra anh là người của
một chi trong những dòng họ hoàng gia. Lâu đài
Hurlstone của gia đình anh là một trong những tòa
nhà cổ kính nhất của vùng.
Đã bốn năm chúng tôi không gặp nhau. Thế là một
lần vào buổi sáng, anh đến chỗ tôi ở.
- Anh có khỏe không, Reginard Musgrave? - Tôi hỏi,
sau khi chúng tôi bắt tay nhau.
- Có lẽ anh đã biết về cái chết của cha tôi cách
đây hai năm. Cố nhiên khi ấy tôi buộc phải cai quản
thái ấp Hurlstone. Ngoài ra tôi còn là Dân biểu
7của địa hạt mình. Tôi không được rảnh rỗi là vì
vậy. Thế còn anh, nghe nói anh đã ứng dụng vào thực
tiễn những khả năng tuyệt vời từng làm chúng tôi
kinh ngạc phải không?
- Vâng. Tôi có ý định kiếm sống bằng trí tuệ.
- Tôi rất mừng khi biết điều này. Hơn lúc nào hết,
bây giờ những lời khuyên của anh sẽ rất quý giá
đối với tôi. Ở chỗ tôi vừa xảy ra những chuyện kì
quặc, cảnh sát không làm rõ được điều gì hết.
- Kể cho tôi nghe đi!
Tôi mời Musgrave một điếu thuốc lá. Anh ngồi đối
diện với tôi và bắt đầu hút.
- Mặc dầu chưa cưới vợ, tôi vẫn buộc lòng phải
quản lí cả một đống đầy tớ. Ổ khoá lớn được thiết
kế rất vụng về nên cần thường xuyên để mắt tới.
8Thêm vào đó, tôi có một khu rừng cấm. Vào mùa săn
chim trĩ, trong nhà rất đông người, số người phục
vụ khá đông. Tôi có cả thảy tám nữ hầu, một người
nấu bếp, một quản gia, hai đầy tớ và một chú bé để
sai vặt. Ngoài ra, trong vườn và ở các tàu ngựa còn
có thợ làm việc.
Phục vụ ở gia đình chúng tôi lâu hơn cả là viên
quản lí Brunton. Lúc mới vào làm, anh ta chỉ là một
giáo viên trẻ. Chẳng bao lâu, do tính khí và nghị
lực mạnh mẽ của mình, anh trở thành một người không
thể thiếu được trong gia đình chúng tôi.
Đó là một người đàn ông có vầng trán rộng, cao to
và điển trai. Mặc dầu đã sống ở chỗ chúng tôi tới
gần hai mươi năm, nhưng hiện giờ anh vẫn chưa đầy
bốn mươi tuổi.
9- Có thể coi là lạ lùng vì với vẻ ngoài hấp dẫn và
khả năng phi thường như thế - Holmes nói những lời
này du dương tựa như đang chơi nhạc cụ - Anh ta
lại hài lòng với cương vị khiêm tốn của mình lâu
đến thế ư?
Musgrave nói tiếp:
- Brunton sống khấm khá và không mong mỏi một sự
thay đổi nào. Anh ta luôn luôn chú ý tới tất cả các
vị khách của chúng tôi.
Brunton đã kết hôn với Rachel Howells, cô hầu
phòng của chúng tôi. Rachel là một người hầu tốt.
Nhưng sau đấy Brunton lại yêu con gái một người thợ
săn lành nghề và ruồng rẫy vợ. Sau chuyện này,
Rachel bị viêm màng não. Chẳng bao lâu sau, cô ấy
bình phục và giờ đây thì đã đi lại được, nhưng chỉ
10còn có một mắt... Tấn thảm kịch đầu tiên là như vậy
đó. Thế nhưng tấn kịch thứ hai mới là một sự kiện
lớn lao.
Như trên đã nói, ngôi nhà của chúng tôi có quá
nhiều đường ngang ngõ tắt. Một ngày của tuần trước,
tôi dại dột uống cạn một li cà-phê đặc sau bữa ăn,
và kết quả là tôi thao thức đến 2 giờ sáng. Cuối
cùng, tôi dậy thắp nến để tiếp tục đọc cuốn tiểu
thuyết. Hóa ra tôi để quên cuốn sách ở phòng chơi
billiard.
Muốn tới phòng billiard, tôi phải xuống một cầu
thang, băng qua hành lang thư viện và kho chứa vũ
khí. Tôi đi vào hành lang, bỗng thấy có những tia
sáng yếu ớt hắt ra từ cánh cửa để ngỏ của thư viện.
Tôi nhớ rất rõ là trước khi đi ngủ, chính tay tôi
11đã tắt cây đèn và đóng cửa lại rồi! Cố nhiên, ý
nghĩ đầu tiên đến với tôi là kẻ trộm đã đột nhập
vào đây. Vớ lấy chiếc rìu trên một bức tường, đặt
cây nến xuống, tôi rón rén đi theo hành lang và ghé
mắt nhìn qua cánh cửa của thư viện.
Brunton đang ngồi trên ghế bành. Một tờ giấy tựa
như tấm bản đồ địa lí được trải rộng trên đầu gối
anh ta. Hết sức kinh ngạc, tôi đứng yên, quan sát
anh ta từ trong bóng tối. Đột nhiên, Brunton đứng
dậy, tới gần bàn giấy đặt cạnh tường, dùng chìa
khóa mở một ngăn bàn ra. Sau khi lấy một mảnh giấy
gì đó, anh ta lại ngồi vào chỗ cũ, vuốt phẳng phiu
và bắt đầu chăm chú đọc.
Tôi giận đến mức không kìm mình được nữa. Tôi bước
về phía Brunton, anh ta nhỏm phắt dậy, vội vàng
12nhét tấm bản đồ vào túi.
- Thật tuyệt! Anh đã biện minh cho lòng tin của
chúng tôi như thế đấy! Anh bị nghỉ việc ngay từ
sáng mai.
Anh ta cúi gằm mặt xuống, len lén đi ngang qua
tôi, không nói một lời. Trong ánh sáng yếu ớt của
ngọn nến, tôi liếc nhìn mảnh giấy mà Brunton đã lấy
ra từ bàn làm việc. Hóa ra đó chỉ là một thứ giấy
tờ không quan trọng gì cả: Nó chỉ là bản sao những
câu hỏi và câu trả lời được nói trong khi tiến hành
một tục lệ độc đáo cổ xưa mà chúng tôi gọi là “Tục
lệ ở gia đình Musgrave”.
Số là từ vài thế kỉ nay, mỗi khi đến tuổi trưởng
thành, mỗi người đàn ông trong dòng họ chúng tôi
đều phải tiến hành một nghi thức không ai không
13biết. Nghi thức này chỉ gợi sự quan tâm của các
thành viên trong gia đình chúng tôi, hoặc quá lắm,
nó có thể gợi sự chú ý của các nhà khảo cổ muốn
lượm lặt các hiểu biết về những dòng họ xa xưa.
Tuyệt nhiên nó không thể có một ý nghĩa thực tế nào
cả.
- Chúng ta sẽ quay lại mảnh giấy này! - Tôi nói
với Musgrave.
- Nếu anh cho rằng việc đó thực sự cần thiết. Tôi
xin được tiếp tục trình bày tiếp - Musgrave trả lời
với nỗi do dự thoáng qua
- Sau khi khoá ngăn bàn giấy (chìa khóa Brunton để
lại tại đó), tôi sắp sửa bước ra thì lạ thay,
Brunton đã quay trở lại, đứng ngay trước mặt tôi.
- Ông Musgrave! - Anh ta kêu lên, giọng khò khè vì
14xúc động
- Tôi không chịu đựng được sự ô nhục này! Tuy ở
địa vị thấp hèn, tôi cũng có lòng tự trọng. Tôi van
ông, hãy gia hạn cho tôi một tháng để tôi có thể
nói là tôi rời khỏi đây một cách tự nguyện. Còn bị
đuổi đi trước cái nhìn của tất cả mọi gia nhân là
điều quá sức chịu đựng của tôi.
- Vì anh đã phục vụ nhiều năm nên tôi sẽ không bắt
anh chịu nỗi ô nhục này một cách công khai. Vậy
sau một tuần, anh phải rời khỏi đây với lí do nào
đấy tùy anh!
- Chỉ một tuần thôi sao, thưa ông? - Anh ta kêu
lên tuyệt vọng
- Hãy cho tôi hai tuần!
- Chỉ một tuần thôi.
15Anh ta cúi đầu xuống, chậm chạp lê chân đi. Tôi
tắt nến và đi về phòng mình.
Trong hai ngày sau đó, Brunton làm bổn phận của
mình một cách chu đáo. Thế nhưng sang ngày thứ ba,
trái với nếp bình thường, anh ta không tới chỗ tôi
nữa. Sau buổi sáng, lúc đi từ phòng ăn ra, tôi vô
tình nhận ra cô hầu phòng Rachel, vợ cũ của anh ta.
Bây giờ cô có vẻ suy kiệt đến nỗi tôi phải quở
trách cô vì cô đi làm quá sớm.
- Cô đừng làm việc khi vừa mới bình phục!
Cô ta nhìn tôi với vẻ là lạ, khiến tôi chợt nghĩ
có lẽ cơn bệnh đang ảnh hưởng tới đầu óc của cô ta
chăng?- Tôi khỏe rồi, thưa ông!
- Rồi xem bác sĩ sẽ nói như thế nào! Còn bây giờ
thì hãy bỏ công việc, đi xuống nhà dưới, nhân thể
16bảo Brunton rẽ vào chỗ tôi!
- Anh ta biến mất rồi!
- Biến mất! Thế nghĩa là thế nào?
- Thật mà! Không ai còn nhìn thấy anh ta nữa. Anh
ta cũng không ở trong phòng. Anh ta đã biến mất.
Đúng! Đúng! Đã biến mất!
Cô ta tựa vào tường và bắt đầu cười khanh khách.
Tôi phát hoảng, chạy tới chiếc chuông nhỏ, gọi
người giúp việc. Người ta đưa cô gái vào phòng. Cô
vẫn vừa cười rộ vừa tức tưởi khóc. Tôi bắt đầu hỏi
về Brunton. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta đã
biến mất thật. Tuy vậy, thật khó mà hình dung nổi
anh ta ra khỏi nhà bằng cách nào? Bởi vì vào buổi
sáng, mọi cửa sổ và cửa ra vào vẫn còn được khóa từ
phía bên trong, áo quần, đồng hồ, ngay cả tiền bạc
17của Brunton vẫn còn nguyên ở trong phòng, chỉ
thiếu đôi giày vải đi trong nhà, nhưng đôi ủng thì
lại có. Xin nhắc lại, đôi khi tôi có cảm giác như
nhà mình là một “mê cung” thật sự. Chúng tôi tìm
kiếm từng phòng một, thậm chí các tầng thượng.
Không có kết quả. Tôi mời cảnh sát khu vực đến. Họ
cũng không phát hiện được gì hơn. Đêm hôm trước có
mưa, không thể tiến hành xem xét các bãi cỏ và con
đường quanh nhà. Tình hình vẫn như thế cho tới khi
một sự kiện mới lại xảy ra.
Trong vòng hai ngày đêm, Rachel chuyển từ tình
trạng mê sảng sang những cơn co giật thần kinh. Sức
khỏe của cô xấu đi đến mức ngay ban đêm chúng tôi
cũng phải mời hộ lí đến chăm sóc cô. Sang đêm thứ
ba kể từ lúc Brunton biến mất, người hộ lí đã ngủ
18trên ghế bành khi thấy bệnh nhân chìm trong giấc
ngủ ngon lành. Sáng sớm, bà ta nhận ra giường trống
không, cửa sổ mở toang, còn bệnh nhân thì biến
mất. Lập tức người ta đánh thức tôi dậy. Dẫn theo
hai gia nhân, tôi bắt đầu tìm kiếm. Chúng tôi dễ
dàng xác định hướng cô ta chạy ra: Bắt đầu từ cửa
sổ đến chỗ dừng ngay sát mặt nước. Ao chỉ sâu chừng
tám feet. Chúng tôi dùng câu liêm bắt tay vào việc
tìm kiếm xác chết nhưng chỉ khều được một chiếc
bao nhét đầy những mẩu sắt vụn cũ kĩ gỉ sét cùng
những mảnh đá lửa và thủy tinh. Cảnh sát hoàn toàn
lúng túng, và bây giờ, niềm hi vọng cuối cùng của
tôi là đặt ở anh, anh Holmes.
- Anh Watson! Sau khi nghe xong câu chuyện, tôi
muốn liên kết một khối thống nhất, và rất muốn phát
19hiện ra sợi chỉ dẫn đường đưa đến lời giải đáp cho
việc viên quản lí biến mất, nữ gia nhân cũng biến
mất. Có một lúc nào đấy, cô ả yêu anh chàng, nhưng
sau đấy lại oán ghét anh ta. Ngay sau khi Brunton
đột nhiên mất hút, cô ta đã bị kích động mạnh. Cô
ném bao tải chứa những đồ vật lạ lùng xuống ao. Mỗi
sự kiện đều đáng được lưu ý, song ở đây có một sự
kiện không giải thích được thực chất của công việc.
Tôi cần tìm hiểu cái khởi đầu của chuỗi sự việc
này nằm ở đâu? Bởi vì trước mắt tôi chỉ có mắt xích
cuối cùng của nó...
- Anh Musgrave, tôi cần tài liệu mà Brunton nghiên
cứu nó - Tôi nói với Musgrave.
- Thật ra “tục lệ” này là một chuyện hoàn toàn
nhảm nhí. Điều duy nhất có thể biện minh cho nó là
20ở chỗ “Tính cổ xưa” của nó.
Anh ta chìa cho tôi coi một mảnh giấy nhỏ (Có thể
nhìn trong tay tôi đây, Watson!). Cái tục lệ đó tựa
như một bài thi vấn đáp. Bây giờ tôi sẽ đọc cho
anh nghe những câu hỏi và những câu trả lời theo
trình tự được ghi lại ở đây:
- Cái này thuộc về ai ?
- Thuộc về người đã đi khỏi đây.
- Cái này sẽ thuộc về ai?
- Thuộc về người sẽ đến đây.
- Mặt trời ở đâu ?
- Trên cây sồi.
- Bóng râm ở đâu?
- Dưới cây du.
- Cần đi bao nhiêu bước?
21- Đi về phía bắc mười và mười, về phía đông năm và
năm, về phía nam hai và hai, về phía tây một và
một và phía dưới.
- Chúng ta hiến những gì?
- Cho tất cả những gì chúng ta có.
- Chúng ta hiến thân cho điều đó để làm gì?
- Vì bổn phận.
- Trong nguyên bản không có ngày tháng - Musgrave
lưu ý.
- Song nếu phán đoán theo quy tắc chính tả thì
chúng ở vào giữa thế kỉ XVII. Vả chăng, chúng sẽ
giúp ta quá ít trong việc khám phá ra bí mật này.
- Tuy vậy, chúng đặt trước mặt chúng ta các điều
bí ẩn thứ hai. Điều bí ẩn này rất thú vị - Tôi trả
lời - Hi vọng anh sẽ không phật ý vì tôi, anh
22Musgrave, nếu tôi nói rằng Brunton có một trí tuệ
và một linh cảm lớn hơn mười thế hệ những người chủ
của anh ta.
- Thú thật là tôi chưa hiểu anh định nói gì -
Musgrave trả lời - Tôi cảm thấy mẩu giấy này không
hề mang một ý nghĩa thực tế nào cả.
- Trái lại nó cực kì quan trọng. Chính Brunton
cũng cho là như vậy. Có lẽ anh ta đã nhìn thấy nó
trước cái đêm anh bắt gặp anh ta đang phạm lỗi.
- Rất có thể như vậy! Chúng tôi chưa khi nào cất
giấu nó.
- Hơn nữa, vào lần đó, Brunton chỉ muốn nhớ lại
nội dung của nó thôi. Bởi hắn đã cầm trong tay tấm
bản đồ hoặc sơ đồ gì đó để đối chiếu với bản chép
tay, và nhanh chóng bỏ vào túi lúc nhìn thấy anh,
23phải không?
- Hoàn toàn đúng. Nhưng anh ta cần “cái tục lệ” ấy
để làm gì?
- Chúng ta sẽ giải thích được.
Ngày hôm sau chúng tôi có mặt ở Hurlstone. Tòa lâu
đài cổ kính này được xây dựng theo hình chữ “L”
với cái mái dài có vẻ hiện đại, còn mái ngắn thì cổ
lỗ, nhưng tất cả những gì còn lại đều mọc lên từ
đấy. Trên cánh cửa nặng nề, con số chỉ năm 1607
được chạm khắc, thể hiện rõ nét tính cổ xưa của tòa
nhà. Thế nhưng những người am hiểu lại cho rằng,
các xà ngang bằng gỗ và những khối đá xây còn cổ
xưa hơn nhiều. Bao quanh khu nhà là một công viên
lớn với những hàng cây cổ thụ.
Còn cái hồ mà Musgrave gọi là cái ao thì nằm cuối
24con đường có cây trồng, cách tòa nhà khoảng hai
trăm yard.
Anh Watson, vào thời gian này, trong tôi hình
thành một niềm tin chắc chắn rằng ở đó không hề có
tới ba điều bí ẩn riêng rẽ mà chỉ có một mà thôi:
Nếu khám phá được ý nghĩa của tục lệ nhà Musgrave
thì cũng sẽ tìm ra viên quản lí và cô hầu. Tại sao
Brunton lại cố gắng thâm nhập vào bản chất của công
thức cổ xưa này? Rõ ràng anh ta nhận ra trong đó
có một cái gì đấy lọt qua sự chú ý của tất cả các
thế hệ chủ nhân. Từ cái đó, anh ta hi vọng sẽ kiếm
chác món lợi riêng. Nó là cái gì vậy? Khi đọc xong
mảnh giấy, tôi được sáng tỏ hoàn toàn. Thì ra tất
cả các con số đều liên quan tới một nơi cất giấu
những thứ được nói đến trong phần đầu của tài liệu.
25Và giá như tôi tìm thấy nơi này, thì tôi sẽ có cơ
sở phát hiện ra bí mật mà tổ tiên Musgrave đã che
đậy dưới hình thức vô cùng độc đáo. Hai vật chuẩn,
cây sồi và cây du đã cho tôi đầu mối của sự truy
tìm. Ngay trước ngôi nhà về phía trái con đường có
một cây sồi tộc trưởng.
- Khi “tục lệ” của các anh được ghi lại, cây sồi
đã có chưa? - Tôi hỏi.
- Chắc nó đã có ở đấy vào thời Công tước xứ
Normandy xâm lược Anh(1) , chu vi thân nó lên tới
hai mươi ba feet - Musgrave trả lời.
- Ở chỗ anh có cây du nào không? - Tôi hỏi tiếp.
- Có một cây du rất lâu đời, nhưng mười năm trước
nó bị sét đánh. Chúng tôi buộc phải chặt tận gốc.
- Chắc anh biết chỗ nó đã mọc lên chứ?
26- Tất nhiên.
- Có những cây du khác mọc cạnh nó không?
- Những cây du lâu năm thì không, còn những cây du
mới lớn thì nhiều lắm.
Chúng tôi đi đến đó bằng xe hai bánh. Người khách
hàng không rẽ vào nhà mà dẫn tôi theo bãi cỏ đến
chỗ cây du đã bị đốn. Chỗ này nằm ở trong khoảng từ
cây sồi đến tòa nhà. Vậy là bước đầu tôi đã thành
công.
- Có lẽ giờ đây không còn có cách nào để xác định
chiều cao của cây du này? - Tôi hỏi.
- Nó cao sáu mươi tư feet.
- Sao anh biết? - Tôi kinh ngạc kêu lên.
- Khi ra những bài tập lượng giác, vị gia sư
thường thiết lập trên sự đo lường các độ cao khác
27nhau. Cho nên lúc còn bé, tôi đã đo chiều cao của
từng cái cây, từng công trình xây dựng tại đây.
1. Cuộc chinh phạt Anh của người Norman ở thế kỉ
XI.
Một thành công bất ngờ! Các dữ liệu cần thiết được
thu lượm nhanh hơn so với dự tính của tôi.
- Có bao giờ viên quản lí hỏi anh về chuyện đó
không? - Tôi hỏi. Musgrave nhìn tôi kinh ngạc:
- Cách đây vài tháng, Brunton quả có hỏi về chiều
cao của cây du này. Hình như có một cuộc tranh luận
giữa anh ta và một gia nhân về việc đó.
- Anh Watson, như thế có nghĩa là tôi đã đi đúng
hướng. Tôi liếc nhìn mặt trời. Nó đã khuất, và tôi
ước tính một giờ trước đây, mặt trời đã ở trên
những nhánh cây cao của cây sồi già. Như vậy là một
28điều kiện được nhắc đến trong tài liệu đã được
thực hiện.
Còn cái gì liên quan tới bóng râm từ cây du? Rõ
ràng người ta ngụ ý nói về điểm xa nhất của nó.
Thật ra bây giờ tôi chỉ cần trả lời câu hỏi này:
“Vào lúc mặt trời nằm trên cây sồi thì điểm cuối
cùng của bóng cây du nằm ở đâu?” Tôi cùng với
Musgrave đến phòng làm việc của anh ta. Tôi vót một
cây gậy dài sáu feet có thắt nút, đánh dấu từng
tấc một rồi cùng người khách hàng trở lại chỗ cây
du. Đúng vào lúc mặt trời đang “nằm trên đỉnh” cây
sồi, tôi cắm cây sào xuống đất: Bóng của cây gậy
dài chín feet.
Nếu cây gậy có chiều cao là sáu feet có bóng dài
chín feet thì cây du có chiều cao sáu mươi tư feet
29sẽ có bóng dài chín mươi sáu feet.
Tôi đo khoảng cách này, nó đưa tôi đến chính ngay
bức tường nhà. Tôi cắm cọc vào chỗ đó và nhận ra
trên mặt đất có một hố sâu hình nón, cách chiếc cọc
chừng hai inch! Tôi hiểu rằng đây là chỗ Brunton
đánh dấu trong lúc đo; tôi tiếp tục đi theo dấu vết
của anh ta. Từ điểm này, tôi tính các bước chân:
Mười bước rồi mười bước nữa theo hướng bắc, tôi
được dẫn đi song song với bức tường ngôi nhà. Đo
xong, tôi lại đánh dấu bằng gậy của mình. Thế rồi
tôi lại tỉ mỉ đo năm rồi năm bước nữa về phía đông,
hai và hai bước nữa về phía tây.
Thế nhưng lúc đó tôi buộc phải bỏ qua những bước
này vì phải đi theo hành lang bằng đá phiến.
Tôi nhìn thấy những phiến đá xám cũ kĩ được đính
30chặt với nhau bằng xi măng, và trong nhiều năm nay,
nó không bị suy suyển. Vậy là Brunton không hề
đụng vào chúng. Tôi gõ gõ một đôi chỗ trên nền hành
lang. Song âm thanh nhận được chỗ nào cũng như chỗ
nào. Không có dấu hiệu của sự rạn nứt hoặc kẽ hở,
hoặc chỗ rỗng nào cả.
May thay, Musgrave đã hiểu ý nghĩa những hành động
của tôi.
Bấy giờ anh ta xúc động không kém tôi. Anh rút tài
liệu ra để kiểm tra bài toán của tôi.
- Và phía dưới! - Anh ta kêu lên - Anh quên những
từ này: Và phía dưới. Tôi ngỡ ba chữ đó có nghĩa là
phải đào xuống đất. Nhưng bây giờ ngay tức khắc
tôi biết mình đã lầm.
- Nghĩa là nhà anh có tầng hầm phải không? - Tôi
31kêu lên.
- Vâng. Nó ở ngay phía dưới cánh cửa kia kìa!
Chúng tôi lần theo cầu thang đá xoáy trôn ốc đi
xuống dưới.
Nhà quý tộc bật diêm, thắp đèn rồi đặt trên thùng
trong góc. Tầng hầm này dùng để chứa củi, nhưng các
thanh củi trước đây vốn phủ kín nền hầm, giờ được
xê dịch sang hai bên tường, chừa ra một lối đi ở
giữa. Tại đây có một phiến đá rộng và nặng. Ngay
chính giữa phiến đá có một vòng sắt gỉ.
- Một chiếc khăn quàng của Brunton! - Musgrave la
lên - Đã có nhiều lần tôi trông thấy chiếc khăn này
ở cổ hắn. Tên vô lại này làm gì ở đây?
Hai cảnh sát khu vực được mời tới. Trước sự chứng
kiến của họ, tôi túm lấy chiếc khăn và toan ra sức
32lật phiến đá lên. Thế nhưng phiến đá quá nặng. Với
sự giúp sức của một cảnh sát, chúng tôi cố gắng
dịch nó về một phía. Một hố đen hiện ra. Tất cả mọi
người đều nhìn vào đó. Musgrave quỳ xuống, đưa
ngọn đèn soi xuống phía dưới.
Chúng tôi trông thấy căn phòng hẹp, hình vuông,
sâu chừng bảy feet và rộng chừng bốn feet. Cạnh
tường có một chiếc hòm gỗ bọc đồng thấp lè tè. Nắp
hòm mở. Chiếc chìa khóa cũ trồi ra ngoài lỗ khóa.
Một lớp bụi dày phủ phía ngoài hòm. Độ ẩm làm mặt
gỗ bị mốc meo cả. Một vài vành kim khí nằm bẹp dưới
đáy. Trong hòm không còn gì nữa.
Tuy nhiên, ngay từ phút đầu tiên, chúng tôi không
để ý tới chiếc hòm cũ kĩ mà cứ dán mắt vào vật nằm
cạnh nó: Một người đàn ông trong bộ áo quần màu
33đen, ngồi xổm, gục đầu vào rìa hòm, hai tay ôm chặt
lấy nó. Khi chúng tôi khẽ nâng anh ta lên thì
Musgrave nhận ra ngay viên quản lí Brunton mất tích
vài ngày trước. Trên thi thể không thấy thương
tích hoặc vết bầm tím nào, và lúc kéo cái xác chết
ra khỏi tầng hầm thì một vấn đề nan giải khác lại
đến với chúng tôi...
Quả là tôi đã tìm thấy Brunton, song bây giờ tôi
sẽ phải giải thích tại sao anh ta lại làm như vậy,
và người đàn bà bị mất tích giữ một vai trò như thế
nào? Tôi ngồi xuống chiếc thùng nhỏ đặt ở góc nhà
và bắt đầu soát xét lại trong trí óc tất cả những
gì đã xảy ra...
Tôi đặt mình vào vị trí nhân vật hành động, tôi
tưởng tượng ra như chính mình nhập vào tình cảnh
34tương tự. Trong trường hợp như vậy, sự việc hóa ra
đơn giản thế này: Brunton biết ở một nơi nào đó có
cất giấu những vật quý giá. Anh ta xác định địa
điểm này, biết tảng đá che cửa ra vào của tầng hầm
quá nặng so với sức vóc của một người. Vậy anh ta
đã làm gì? Không thể trông cậy vào sự giúp đỡ của
người lạ được. Tiện lợi hơn cả là tìm người trợ
giúp ở bên trong ngôi nhà. Brunton có thể nhờ cậy
ai đây? Có một thời gian cô gái kia trung thành với
anh ta. Sau khi bị đuổi, anh ta bèn làm lành với
cô gái và rủ rê cô thành kẻ tòng phạm của mình. Họ
cùng xuống tầng ngầm vào ban đêm. Hai người đã
nhích được tảng đá che cửa ra.
Nhưng lẽ nào đấy lại là một công việc của hai bàn
tay cô gái với hai bàn tay thanh niên. Thậm chí
35chúng tôi - tôi và viên cảnh sát khỏe mạnh - phải
khá chật vật mới lay nổi phiến đá này.
Tôi đứng lên, chăm thú quan sát đống củi xếp trên
nền. Một thanh củi dài chừng ba feet đã bị gãy xơ ở
phía cuối và một vài thanh củi khác thì bị bẹp gí:
Rõ ràng chúng đã chịu một sức mạnh thật đáng kể.
Có lẽ lúc nâng phiến đá lên, Brunton và cô gái đã
nhét những thanh củi này vào kẽ hở khi nó không đủ
rộng để cho anh ta chui vào. Khi chống phiến đá ép
vào với một lực rất mạnh, thanh củi này có thể đã
bị gãy.
Tôi cần tiếp tục hình dung một cách đầy đủ cảnh
diễn ra ban đêm sau đó như thế nào? Chắc chắn chỉ
có một mình Brunton chui xuống. Cô gái chờ phía
trên. Brunton cạy hòm ra, chuyển lên cho cô những
36thứ chứa trong đó. Điều này quá rõ rệt vì chiếc hòm
đã trống không. Và sau đấy... Cái gì đã xảy ra? Có
thể nỗi khát vọng trả thù vốn âm ỉ trong tâm hồn
cô gái đã bùng cháy dữ dội khi cô ta nhìn thấy tính
mạng kẻ đã xúc phạm cô đang nằm trong tay mình,
nên đã đẩy cột chống ra, làm cho phiến đá úp xuống,
mà cũng có thể thanh củi bị gãy và phiến đá đã xây
bít Brunton trong chiếc quan tài bằng đá này. Nếu
đúng như vậy, thì Rachel có lỗi do cô không nói về
sự cố đã xảy ra. Hoặc như thế này, hoặc như thế
kia, và tôi cứ như là trông thấy người đàn bà nọ ở
trước mặt mình: Ôm chặt vật báu vào ngực, chạy lên
phía trên theo cầu thang hình xoáy trôn ốc, chạy
thoát khỏi những tiếng rên rỉ và tiếng đập tuyệt
vọng vào phiến đá của người tình không chung thủy
37đang lịm dần đi.
Có thể giải thích cho vẻ mặt tái nhợt của cô ta
cũng như sự kích động và những trận cười của cô ta
vào sáng hôm sau là như thế. Tuy nhiên, vật gì ở
trong hòm? Đó chính là các mẩu sắt cũ và những mảnh
vụn mà cô ta đã ném xuống ao để che đậy dấu tích
tội lỗi của mình.
Tôi ngồi bất động tới hai mươi phút trong những
suy tưởng sâu sắc. Musgrave với vẻ nhợt nhạt vẫn
còn đứng lắc lư cây đèn, nhìn xuống phía dưới hố
sâu.- Đây là những đồng xu của Charles I - Anh nói
và chìa cho tôi coi một vài mẩu nhặt từ chiếc hòm
- Anh hãy xem, chúng ta sẽ xác định thời gian xuất
hiện tục lệ của gia đình chúng tôi.
- Phải rồi! Chúng ta sẽ xác định được một cái gì
38đó còn lại từ thời Charles I - Tôi kêu lên khi đột
nhiên nhớ lại hai câu hỏi đầu tiên của tài liệu -
Hãy cho tôi xem những thứ trong bao mà chúng ta đã
lấy được từ dưới ao đi!
Chúng tôi lên phòng làm việc của Musgrave, anh rải
những mảnh vụn ra trước mặt tôi. Những mẩu sắt thì
hầu như đen sì, còn những mảnh đá thì mất màu và
đục. Nhưng tôi xát một mẩu vào tay áo. Đột nhiên nó
lóe lên như những tia lửa trong lòng bàn tay tôi.
Các mảnh sắt có hình dạng của đai thùng gập đôi,
song chúng cong và xoắn lại. Tôi nói với Musgrave:
- Chắc anh còn nhớ vị vua kế tiếp Charles I chứ!
Rất có thể trước khi tháo chạy, các cận thần của
nhà vua đã cất giấu những vật dụng có giá trị nhất
vào chỗ này đấy, định bụng sẽ trở lại lấy chúng,
39vào lúc yên ổn hơn.
- Ngài Ralph Musgrave, cụ tổ của tôi, từng giữ vai
trò quan trọng trong triều và là cánh tay phải của
vua Charles II trong thời gian Người bị truy lùng.
- Ồ! Thật là tuyệt vời! Xin chúc mừng anh,
Musgrave ạ! Anh đã trở thành chủ nhân của một di
vật có giá trị to lớn và có ý nghĩa quan trọng hơn,
tựa như một vật hiếm hoi, có tính lịch sử.
- Vậy nghĩa là thế nào? - Anh xúc động hỏi.
- Đó là cái vương miện cổ xưa của các nhà vua.
- Vương miện?
- Đúng! Vương miện. Hãy nhớ lại điều được nói
trong tài liệu: “Cái này thuộc về ai?” “Thuộc về
người đã đi khỏi đây”; điều này được biết sau khi
40Charles I bị hành quyết. “Cái này sẽ thuộc về ai?”
“Thuộc về người sẽ đến đây”: Lời này ngụ ý nói về
Charles II mà sự kế vị của ông ấy đã được nhìn thấy
trước. Đó, chiếc vương miện nhàu nát này dự định
dùng để đăng quang cho một trong số những nhà vua
thuộc triều đại Stuart.
- Nhưng nó rơi xuống ao bằng cách nào?
- Tôi không trả lời ngay bây giờ được.
Và tôi trình bày cho Musgrave nghe toàn bộ quá
trình phán đoán và xác minh của tôi. Trời sập tối.
Tôi kết thúc câu chuyện vào lúc mặt trăng tỏa sáng
trên bầu trời.
- Nhưng lạ thay! Vì lẽ gì mà Charles II không nhận
lại vương miện của mình khi trở về? - Musgrave
hỏi, trong lúc nhét di vật của mình vào bao tải.
41- Rất có thể trước lúc chết, một Musgrave nào đó
đã thổ lộ điều bí mật cho người kế vị bằng tư liệu
dưới dạng chép tay này. Và bởi một lí do nào đấy,
vị đó đã không giải thích tho người kế vị hiểu được
ý nghĩa của văn bản. Từ ngày ấy cho đến nay, tài
liệu được lưu truyền từ đời cha sang đời con để
cuối cùng nó nằm đây.
Anh Watson, câu chuyện “Tục lệ ở gia đình
Musgrave” là như thế! Hiện giờ vương miện đang nằm
ở Hurlstone. Nếu anh muốn nhìn thấy nó, thì họ sẽ
vui lòng chỉ cho anh biết, chỉ cần anh nhắc đến tên
tôi.
Còn điều gì liên quan tới người phụ nữ đã không
cánh mà bay? Chắc có lẽ là cô ta đã từ biệt nước
Anh, cố quên đi kí ức về tội lỗi của mình nơi hải
42ngoại.1.Tin báo
THUNG LŨNG KHỦNG KHIẾP
I. TẤN BI KỊCH Ở LÂU ĐÀI BIRLSTONE
Holmes không đụng một tí nào đến bữa điểm tâm, cứ
ngồi chống tay xuống bàn, ngắm nghía mãi một tờ
giấy vừa lôi ở một bì thư ra. Anh đưa bì thư ra ánh
sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài:
- Kiểu chữ của thằng Porlock! Mặc dầu tôi chưa
nhìn thấy kiểu chữ của nó đến hai lần, nhưng chắc
chắn đây là của nó. Nhưng thằng này mà phải gửi thư
cho tôi thì nhất định là có chuyện quan trọng.
- Porlock là ai vậy? - Tôi tò mò, hỏi.
- Porlock chỉ là một cái tên giả, một loại kí hiệu
để nhận ra nhau thôi. Đằng sau cái tên ấy là một
thằng tinh như ma. Đã có lần nó viết thư nói thẳng
43thừng rằng, Porlock đâu có phải tên thật của nó, và
nó thách tôi tìm xem nó là ai. Sở dĩ tôi chú ý
nhiều đến nó, không phải vì bản thân nó, mà chính
vì nó có liên quan đến một “đại nhân” mà tôi đang
theo dõi. Thằng này cũng giống như kiểu con chó
rừng đi trước con sư tử, một thằng người tí hon hợp
tác với một tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ
đó, chẳng những rất ghê gớm, mà còn khủng khiếp nữa
kia. Watson, đã có lần nào tôi nói với anh về giáo
sư Moriarty chưa?
- Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ gì?
- Chết, anh mà gọi hắn như vậy, thì anh sẽ phải ra
tòa. Mà chính cái chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn!
Một thằng chủ mưu của tất cả những gì bẩn thỉu nhất
đã xảy ra từ trước đến nay. Một bộ óc chỉ huy tất
44cả các tầng lớp cặn bã nhất của xã hội. Thế nhưng
không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả
một lời phê bình nhỏ nào có thể đụng đến lông chân
hắn. Hắn đã che giấu những thủ đoạn của hắn khéo
đến mức hắn có thể lôi anh ra tòa chỉ vì mấy câu
nói vừa rồi, và tòa sẽ tịch thu hết số tiền lương
hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng
rồi thế nào chúng ta cũng phải đấu với hắn thôi.
Tôi bốc lên:
- Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh.
Nhưng mà anh đang nói về tên Porlock kia mà.
- À, Porlock chính là một mắt xích trong sợi dây
xích, gần cái mốc trung tâm đó. Cho đến bây giờ,
Porlock là mắt xích chủ yếu nhất của sợi xích.
- Thì mức bền của một dây xích tùy thuộc vào mắt
45yếu nhất của nó.
- Chính vì thế mà thằng Porlock là rất quan trọng
đối với tôi, thằng này đôi lúc cũng có ý định trở
lại con đường lương thiện, hơn nữa, lâu lâu tôi lại
gửi cho hắn mươi bảng, thành ra đã có hai, ba lần,
hắn có báo cho tôi một vài tin tức có giá trị, các
loại tin tức có thể giúp tôi biết trước và ngăn
ngừa được tội ác, nhưng không trừng phạt được kẻ
gây ra nó. Chắc chắn là nếu có chìa khóa giải được
mật mã, thì lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy.
Holmes trải tấm giấy lên bàn, tôi đứng dậy đi lại
đằng sau, nhìn qua trên vai anh và đọc được những
dòng chữ này:
534 C2 13 127 36 31 4 17 21 41
46DOUGLAS 109 203 5 37 BIRLSTONE 26 BIRLSTONE 9 127
171- Anh nghĩ gì thế, Holmes?
- Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi
đấy.
- Nhưng viết mật mã mà không cho chìa khóa giải
thì có ích lợi gì?
- Trong trường hợp cụ thể này, thì bức mật mã đúng
là không dùng làm gì được.
- Tại sao lại nói rằng “trong trường hợp cụ thể
này”?
- Bởi vì có nhiều bức mật mã ta có thể đọc dễ dàng
cũng như đọc tin rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần
này... tôi đứng trước một cái gì đó khác đây. Rõ
ràng nó có liên hệ đến các chữ trong một trang của
một cuốn sách nào đó.
47- Thế tại sao có hai chữ Douglas và Brilstone?
- Tại vì trong trang sách đó không có hai chữ này.
- Thế thì tại sao hắn lại không nói rõ tên cuốn
sách?
- Có ai cho cả mật mã lẫn chìa khóa giải vào trong
cùng một phong bì thư? Vì nếu thư bị đưa nhầm
người thì tiêu ngay. Cho nên chắc không lâu đâu, sẽ
có một bức thư thứ hai nữa.
Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút
sau, người giúp việc mang đến cho chúng tôi bức
thư chờ đợi. Holmes vừa xé bì thư vừa nhận xét:
- Cũng cùng một thứ chữ, nhưng lần này thì lại kí
tên nữa! - Holmes vừa trải tờ giấy ra vừa nói một
cách đắc thắng - Này Watson ơi, chúng ta tiến lên
48được rồi!
Nhưng vừa đọc được vài dòng, trán Holmes bỗng nhăn
lại:
- Thế là bao hi vọng tan vỡ như bọt xà phòng, chỉ
mong thằng Porlock không bị gay go.
Holmes đọc to bức thư cho tôi nghe:
“Ông Holmes thân mến, trong vụ này tôi sẽ không
mạo hiểm thêm nữa. Nó nguy hiểm quá. Thình lình lão
đến, vào lúc tôi đã viết xong phong bì này với ý
định báo cho ông biết cách giải mã. Tôi đã giấu
được cái bì thư đi, nhưng tôi đọc trong mắt lão,
thấy lão nghi ngờ tôi. Tôi xin ông hãy đốt bức mật
mã đi, vì bây giờ nó chẳng còn có ích lợi gì cho
ông nữa. Fred Porlock.”
Holmes ngồi xuống vò nát bức thư trong tay, mắt
49sửng sốt nhìn vào ngọn lửa trong lò sưởi.
- Có lẽ hắn tự biết hắn đã phản bội chủ, nên hắn
tưởng tượng ra lời buộc tội trong mắt của lão kia.
- “Lão kia” là lão giáo sư Moriarty? - Tôi hỏi.
- Khi một tên trong cái băng này nói đến “lão ta”
thì mọi người đều hiểu là ai rồi. Đối với bọn
chúng, chỉ có một “lão ta” mà thôi.
- Nhưng lão có thể làm gì được?
- Khi người ta là một trong những bộ óc lớn nhất
của châu Âu và được quyền lực đen tối nhất sùng
bái, thì người ta đã nắm trong tay những khả năng
vô hạn. Porlock đang hoảng sợ. Anh so sánh chữ
trong bức thư với thư trên phong bì mà xem. Chữ ở
cái phong bì thì viết rắn rỏi, còn trong bức thư
thì run quá.
50- Thế hắn viết thư làm gì? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất
cả là xong!
- Hắn sợ rằng, nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi
thì rồi mình sẽ đi điều tra xem tại sao, và điều đó
có thể gây phiền phức cho hắn.
- Anh nói có lí, lẽ dĩ nhiên là...
Tôi cầm bức mật mã lên quan sát cẩn thận:
- Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đã được
viết trên mảnh giấy này, mà lại không làm sao đọc
được.Holmes đẩy đĩa thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu
thuốc.- Anh thử xem lại đi! Liệu có một vài chi
tiết nào đó mà cái bộ óc quỷ quái của anh đã để lọt
lưới chăng? - Tôi đề nghị.
- Nào, ta hãy xét bài toán này về phương diện lí
trí thuần túy xem nào! Thằng Porlock chỉ cho ta là
51phải chiếu vào một cuốn sách nào đó. Đấy! Điểm bắt
đầu là từ đấy.
- Cũng mơ hồ quá đi thôi.
- Thì chúng ta làm cho rõ hơn? Chúng ta có những
chỉ dẫn gì về cuốn sách này?
- Chẳng có gì cả.
- Ồ, ồ, bản mật mã bắt đầu từ con số 534, phải
không? Ta đặt giả thiết đây là con số của trang
sách. Như thế thì cuốn sách này khá dày đấy. Thử
xem có còn những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này
không? Mã hiệu thứ nhì là chữ C2 này.
- Chương 2, chắc thế.
- Tôi ngờ là không phải, vì đã ghi số trang, thì
số chương không cần thiết nữa. Vả lại nếu trang 534
mà lại mới chỉ ở chương 2, thì bề dày của cuốn
52sách là không thể tưởng tượng được.
- Không phải chương, mà là cột! - Tôi kêu lên.
- Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh
chớp vậy. Ta đã hình dung ra một cuốn sách dày, in
hai cột, mỗi cột khá dài. Vì trong bản mật mã của
ta có một chữ mang đến con số 203.
Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng,
thì hắn đã gửi cho mình cuốn đó. Theo trong thư thì
trước khi bị “lão kia” bắt gặp, hắn có ý định gửi
cho ta cái chìa khóa giải mã ở ngay trên bì thư
này. Điều này có nghĩa đây là một cuốn sách mà mình
có thể dễ dàng có được ngay. Một cuốn sách mà hắn
có, và hắn nghĩ rằng mình cũng có, nghĩa là một
cuốn sách rất phổ biến.
- Có lí lắm.
53- Vậy diện điều tra sẽ được giới hạn vào một cuốn
sách dày, in hai cột, và thông dụng.
Tôi kêu lên một cách đắc thắng:
- Cuốn Kinh Thánh.
- Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh thì
có biết bao nhiêu là bản in khác nhau, làm sao
Porlock biết được là bản của nó với bản của mình có
cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là một
cuốn sách in đồng loạt, và Porlock phải biết chắc
chắn rằng số trang 534 là có trong cuốn sách của
mình kia. Như thế có thể thu nhỏ diện tìm kiếm lại
nữa .
- Đúng thế. Cuộc tìm kiếm của chúng ta hướng về
những cuốn sách in hàng loạt mà nhà nào cũng có.
- Cuốn Chỉ dẫn giờ tàu hỏa.
54- Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khan. Không dễ
gì dùng những chữ ở trong đó để tạo nên một bức
thư. Chúng ta loại bỏ cuốn Chỉ dẫn giờ tàu hỏa.
Cũng loại bỏ cuốn Tự điển vì những lí do đó.
Thế thì còn gì nữa nào?
- Một cuốn Lịch niên giám.
- Xuất sắc! Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám
xem, nó rất thông dụng, nó có đủ số trang đòi hỏi,
nó in trên hai cột, ở quãng đầu thì ngôn ngữ của nó
có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cũng hùng biện
lắm đấy...
Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn.
- Đây trang 534, cột 2, mình thấy một bài văn
tràng giang đại hải nói về nền thương mại và những
tài nguyên của xứ Ấn Độ, thuộc Anh. Watson, anh ghi
55các chữ này đi. Số 13 là chữ “ma”. Hứ, cái bắt đầu
này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là “Chính phủ”,
cũng còn có ý nghĩa một chút, nhưng chẳng có liên
quan gì đến chúng ta và giáo sư Moriarty cả. Bây
giờ cứ thử nữa xem. Chính phủ làm gì? Than ôi, chữ
sau là “lông lợn”, thế thôi là hết. Chúng ta đã
thua cuộc!...
Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng.
Nản lòng, tôi cũng ra ngồi cạnh lò sưởi. Sự im lặng
kéo dài bỗng nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng kêu của
Holmes. Anh chạy vội đến chiếc tủ đứng và moi ra
một cuốn sách dầy cộm khác, bìa màu vàng.
- Tại vì chúng ta muốn đi trước thời đại. Hôm nay
là ngày mùng 7 tháng Giêng, cho nên chúng ta mới đi
tra cứu một cuốn mới. Nhưng chắc chắn là Porlock
56đã dùng một cuốn lịch năm ngoái, và có lẽ đã nói rõ
cho chúng ta biết điều này nếu như hắn viết được
lá thư chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang 534 có cái
gì nào? Số 13 là chữ “một”. A, có vẻ hứa hẹn rồi.
Số 127 là “nguy hiểm”.
Mắt của Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon
nhọn của anh cứng đơ ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm
chữ.- À. Một nguy hiểm... Ghi đi Watson, ghi “một
nguy hiểm... cấp bách... đe dọa một người tên
là”... Ở đây chúng ta có chữ “Douglas”, một người
tỉnh lẻ giàu có tại Birlstone. “Xác thực. Nguy
hiểm. Khẩn cấp...”. Đó, Watson! Nếu anh bán tạp hóa
ở đầu phố mà có bán hoa thì tôi sẽ cho đi mua về
để tự tặng thưởng cho mình.
Tôi đọc lại bức thư kì lạ mà mình đã ghi nguệch
57ngoạc trên giấy khi Holmes đang giải mã, và thở
dài:- Vì sao lại tìm một cách phức tạp đến thế này
để viết vài câu?
- Trái lại, thằng Porlock đã hành động xuất sắc
đấy. Nếu định tìm chữ trong một cột thôi thì sẽ khó
mà tìm cho đủ chữ để nói hết ý nghĩ, ở đây trái
lại, nội dung bức thư là hoàn toàn rõ ràng. Người
ta đang âm mưu chống lại một người nào đó tên là
Douglas, chắc chắn là một tay địa chủ giàu có ở
tỉnh. Porlock biết đích xác là sự nguy hiểm cấp
bách (hắn không tìm thấy chữ “đích xác” trong cột
chữ in nên phải dùng chữ “xác thực”).
- Chúng ta vừa làm được một công trình kiệt tác về
phân tích.
Holmes vui như một nghệ sĩ chân chính trước một
58tác phẩm thành công nhất của mình, và anh đang còn
giữ một nụ cười trên môi, khi Billy mở cửa để cho
viên thanh tra mật thám McDonald bước vào.
Chuyện này xảy ra vào những năm 80. Vào thời ấy,
McDonald là một trinh thám trẻ, năng nổ, cũng đã có
đôi chút thành tích trong một vài vụ án... cả cái
vóc người to lớn, cũng chứng tỏ sức mạnh phi thường
của anh ta. Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong
hai hốc mắt, lông mày rậm rì. Đó là một chàng trai
ít nói, tính tình nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đã
có dịp giúp anh ta thành công một đôi lần và không
chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này giải
thích được tại sao người thanh tra xứ Ecosse này
kính trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử
của mình.
59Holmes đon đả chào hỏi:
- Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc ông nhiều
may mắn trong khi đi săn bọ sáng nay. Nhưng tôi sợ
rằng ông đến vào giờ này không khéo lại có một
chuyện chẳng lành xảy ra.
McDonald trả lời với một nụ cười tâm lí:
- Ông Holmes, nếu ông thay chữ “tôi sợ rằng” bằng
chữ “tôi mong rằng” thì có lẽ ông sẽ gần sự thật
hơn. Không, tôi không hút thuốc đâu, cám ơn. Tôi
phải lên đường ngay bây giờ, vì những giờ đầu tiên
của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất,
nhưng...
Viên thanh tra bỗng ngừng bặt, ông ta vừa thấy tờ
giấy trên đó tôi đã ghi lại lời giải mã, ông ta há
hốc mồm nhìn tờ giấy.
60- Douglas, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy
những cái tên này ở đâu ra vậy?
- Đây là một bức mật mã mà bác sĩ Watson và tôi
vừa giải ra. Nhưng tại sao những cái tên này làm
ông phải bối rối?
- Một ông tên là Douglas ở lâu đài Birlstone vừa
bị ám sát sáng hôm nay - McDonald nói.
2. SHERLOCK HOLMES DIỄN THUYẾT
Nói rằng một cái tin kì lạ như vậy làm anh ta phải
bối rối hay xúc động thì là nói ngoa. Mặc dù là
người không có tính độc ác, nhưng vì sống mãi trong
những cái “giật gân”, thành ra cũng chai người đi
rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi
thì trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm.
Holmes nói lớn:
61- Phi thường! Thật phi thường!
- Hình như ông không ngạc nhiên gì thì phải?
- Tại sao tôi lại phải ngạc nhiên? Tôi nhận được
một bức thư nặc danh, báo cho biết là có một sự
nguy hiểm đang đe dọa một người nào đó. Rồi một giờ
sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đã thành sự
thật và người kia đã chết. Vậy thì tôi có chú ý,
chứ không hề ngạc nhiên.
Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng
tôi vừa giải mã bức thư. McDonald ngồi xuống, hai
tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt chỉ còn như hai cái
khe màu vàng. Ông ta nói:
- Tôi định sáng hôm nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi
rẽ vào đây để hỏi xem ông có cùng đi không? Nhưng
bây giờ làm việc ở London có lẽ có kết quả hơn?
62- Tôi không nghĩ thế - Holmes nói.
- Ông hãy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, báo
chí sẽ làm rùm beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu
đài đó. Nhưng bí mật ở đâu kia chứ, vì ngay tại
London, đã có người báo tin trước khi án mạng xảy
ra. Vậy chúng ta hãy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, thì
mọi việc còn lại sẽ tuồn tuột theo cả ra thôi.
- Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm
cổ được cái tên Porlock này?
McDonald lật ngược lá thư mà Holmes vừa đưa cho
anh ta.
- Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này
cũng không giúp được gì? Theo ông thì cái tên này
là tên giả? Có phải ông nói rằng ông có gửi tiền
cho hắn phải không?
63- Hai lần.
- Bằng cách nào?
- Gửi qua bưu điện.
- Ông không bao giờ đi xem mặt người lĩnh số tiền
đó?
- Không.
Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu.
- Tại sao lại không?
- Bởi vì bao giờ tôi cũng giữ đúng lời hứa. Khi
hắn viết thư cho tôi lần đầu tiên, tôi đã hứa với
hắn là sẽ không tìm cách theo dõi hắn. Ông có nghĩ
rằng có một người nào khác đằng sau hắn không?
- Tôi không nghĩ, mà tôi biết chắc kia. Cái vị
giáo sư mà ông đã nói với tôi?
- Đúng đấy.
64McDonald mỉm cười và nháy mắt với tôi.
- Ông Holmes ạ. Chính tôi đã đích thân điều tra về
ông ta: Mọi cái đều cho thấy rằng đây là một con
người đáng kính, một nhà bác học đầy tài năng.
- Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài
năng của ông ta.
- Thật vậy, người ta chỉ còn biết cúi đầu kính
chào ông ta mà thôi. Tôi có ngồi nói chuyện với ông
ta về nguyệt thực, nhật thực. Mà thật quái quỷ!
Tôi không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại quay
sang vấn đề đó. Nhưng thực tình chỉ với một cái đèn
và một quả địa cầu, ông ta đã cắt nghĩa tất cả cho
tôi hiểu trong có một phút đồng hồ. Ông ta có cho
tôi mượn một cuốn sách, nhưng nó quá cao siêu đối
với tôi. Ông ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái tóc
65hoa râm, và cách ăn nói hơi trịnh trọng, đủ để làm
một ông bộ trưởng.
Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào
nhau:
- Thật là tuyệt, cuộc đàm đạo mê li và xúc động ấy
là ở ngay trong buồng làm việc của giáo sư phải
không?
- Đúng thế.
- Một căn phòng rất đẹp.
- Rất đẹp, đúng thế.
- Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta?
- Vâng.
- Mặt trời chiếu vào mắt ông, còn mắt của giáo sư
thì ở trong bóng tối?
- Lúc đó là vào buổi tối, cái đèn quay về phía
66tôi.
- Tự nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu
chỗ giáo sư ngồi có treo một bức tranh không?
- Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai
tay ôm đầu và liếc nhìn xuống người xem tranh.
- Bức tranh của họa sĩ Jean Baptiste Greuze đấy.
Viên thanh tra chăm chú nghe. Holmes ngả người vào
lưng ghế, chụm đầu các ngón tay vào nhau, nói
tiếp:- Jean Baptiste Greuze là một họa sĩ người
Pháp. Các nhà phê bình hiện đại đã đánh giá cao họa
sĩ này.
Hai mắt của viên thanh tra giãn ra:
- Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hãy...
Holmes cắt ngang ngay:
- Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối
67liên quan với cái bí mật lâu đài Birlstone đấy.
Thực ra, chúng ta đang đứng ở trung tâm của lối bí
này.
McDonald miễn cưỡng mỉm cười và nhìn tôi:
- Ông suy nghĩ có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một
hay hai bước, thành ra tôi không theo kịp ông nữa.
Làm sao lại có thể có một mối liên hệ giữa nhà họa
sĩ của thế kỉ trước với vụ án này được?
- Sự kiện một bức tranh của Greuze đem ra bán giá
bốn mươi nghìn bảng không đủ làm chuyển bánh cả một
đoàn tàu dài những suy nghĩ trong chất xám của ông
sao?
Không biết có phải là chuyển bánh không, nhưng
thấy viên thanh tra gãi đầu ghê quá, Holmes nói
tiếp:- Lương của giáo sư Moriarty là bảy trăm bảng
68Anh một năm. Vậy thì làm sao mà ông ta có thể mua
được bức tranh?
Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết
tốc lực: - Thật là hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông
nói chuyện.
Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán
thưởng ngây thơ như vậy.
- Thế ở lâu đài đã xảy ra chuyện gì? - Holmes hỏi.
- Chúng ta có thì giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi
tôi ở dưới đường kia. Về chuyện bức tranh... Ông
Holmes ạ, có lần ông đã khẳng định với tôi là chưa
hề gặp mặt giáo sư bao giờ.
- Đúng. Tôi chưa hề gặp mặt ông ta.
- Thế thì làm sao ông biết được căn buồng của ông
69ta?
- Tôi đã đến nhà ông ta ba lần: Hai lần tôi đã
kiếm cớ ngồi chờ ông ta, và tôi đã đi khỏi trước
khi ông ta về; còn một lần... chính lần đó tôi đã
tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta,
và kết quả thật là bất ngờ.
- Ông có tìm thấy một cái gì phạm pháp không?
- Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối
rối. Nhưng mà ông đã thấy tầm quan trọng của chi
tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết ấy nói lên rằng
ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm gì mà lại
giàu đến thế? Ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một
người xếp ga quèn ở miền Tây.
- Vậy thì sao?
- Suy luận ra cũng đơn giản thôi.
70- Ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập
lớn và những nguồn này là bất hợp pháp phải không?
- Đúng là như thế. Cái ý nghĩ này, tất nhiên không
phải là chỉ dựa trên bức họa của Greuze thôi. Tôi
có cả tá những sợi tơ mong manh dẫn tôi đến trung
tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im rình
mồi. Sở dĩ tôi nêu lên chuyện bức họa, cũng chỉ vì
nó nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi.
- Những điều ông vừa nói hết sức đáng chú ý.
Nhưng nếu có thể, chúng ta hãy thử đào sâu thêm một
tí xem nào. Có phải ông ta đã làm giàu bằng mánh
mung lừa đảo, làm bạc giả, trộm đạo?
- Ông đã bao giờ đọc một cái gì nói về Jonathan
Wild chưa?
71- Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết
không? Trong đó các ngài thám tử đều làm được những
việc rất kì diệu.
- Jonathan không phải là thám tử, cũng không phải
là một nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm
bậc thầy, đã sống vào khoảng năm 1750. Ông
McDonald, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi
chép các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp đi lặp
lại mà thôi, kể cả lão giáo sư Moriarty nữa.
Jonathan là sức mạnh của những tên tội phạm ở
London. Hắn đã bán bộ óc cho bọn này lấy mười lăm
phần trăm hoa hồng trong mỗi vụ. Tất cả những
chuyện đã làm trước đây, sẽ còn được làm lại nữa.
Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Moriarty mà
có lẽ sẽ làm ông vui thích.
72- Tôi xin dỏng cả hai tai lên.
- Tôi đã tìm hiểu được ai là khâu đầu tiên của sợi
dây xích. Một sợi dây xích mà đầu này là một tên
tội phạm thượng thặng, còn đầu kia là cả trăm tên
ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những tên
bợm cờ bạc. Ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả
các loại tội ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là
tên đại tá Sebastian Moran. Theo ông thì lão giáo
sư trả lương cho hắn bao nhiêu tiền?
- Tôi muốn biết điều đó lắm.
- Sáu nghìn bảng Anh một năm. Tôi cũng tình cờ mà
biết được chi tiết này thôi. Ngài đại tá Moran
lương còn cao hơn cả thủ tướng. Những tấm “séc”
bình thường để trả tiền sinh hoạt trong nhà thôi,
được trả vào tài khoản của sáu ngân hàng khác nhau.
73Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghĩ không?
- Tất nhiên cũng đáng chú ý thật. Nhưng từ đó ông
suy luận ra những gì?
- Những gì à, là hắn không muốn ai bép xép gì về
của cải của hắn, hắn có khoảng hai mươi tài khoản ở
ngân hàng, và phần lớn tài sản của hắn thì kí gửi
ở Pháp hoặc Đức.
McDonald ngồi lặng đi, chìm đắm trong một suy nghĩ
sâu lắng, nhưng rồi cái óc thực tế của xứ Scotch
lại kéo anh ta đứng lên.
- Hiện giờ, thì lão ta có thể cứ tiếp tục. Ông đã
kéo chúng tôi đi quá xa với những câu chuyện cổ
tích của ông rồi. Tôi chỉ còn ghi nhận được cái
điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa vị
giáo sư này với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng
74ta có thể đi xa hơn thế không?
- Ông đã nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này
hiện giờ chưa giải thích được. Nếu chúng ta giả
thiết rằng nguồn gốc của nó là như chúng ta đã nói,
thì có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau này.
Trước hết, Moriarty cai quản cái thế giới của lão
bằng một cây roi sắt. Bộ luật hình của lão chỉ gồm
có một hình phạt thôi: Xử tử. Như vậy có thể
Douglas đã phản bội sếp của hắn. Hình phạt đã được
thi hành, và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ
hãi vào những tên còn sống trong băng của lão.
- Đó là một gợi ý, thưa ông Holmes.
- Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng được Moriarty
dựng lên như một dịch vụ thông thường mà thôi, ở đó
có mất gì không, ông McDonald?
75- Tôi không nghe nói có mất gì cả.
- Nếu có mất đồ thì điều này chống lại giả thiết
thứ nhất của tôi và sẽ phù hợp hơn với giả thiết
thứ hai. Moriarty có thể đã bị đẩy đến chỗ phải gây
ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đã
được bọn nào đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai
khả năng này đều có thể có cả. Nhưng dù sao thì
cũng phải đến đó mới tìm được lời giải.
McDonald bật đứng dậy, reo lên:
- Vậy thì phải đi tới lâu đài Birlstone thôi!
Holmes vừa thay áo vừa nói:
- Trong khi đi đường, xin ông McDonald kể lại cho
chúng tôi nghe tất cả.
Chữ “tất cả” này thật ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng
đủ để cho Holmes phải chăm chú nghe. Những chi tiết
76lặt vặt đã làm anh cứ xoa mãi hai tay vào nhau,
mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới sống mấy
tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước
một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes.
Viên thanh tra cũng nói rõ rằng, đây chỉ là những
chi tiết anh ta lấy ra từ một bản báo cáo vội vã
mới gửi theo chuyến tàu sớm nhất. Người trinh sát
của cơ quan công an địa phương đó là bạn của anh
ta. Vì vậy, anh ta được tin rất sớm, khác với mọi
lần. McDonald đọc to cho chúng tôi nghe bức thư của
White Mason.
“McDonald thân mến, những tài liệu chính thức cần
cho các bộ phận công tác của ông đã được gửi trong
một phong bì riêng. Thư này là gửi riêng cho một
mình ông. Hãy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến
77tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài
toán sẽ làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hãy xuống
ngay! Nếu ông có thể mời được cả ông Holmes thì
hay quá. Thực tình, tôi thấy phức tạp quá.”
Holmes nhận xét:
- Gớm, ông bạn của ông có vẻ thắc mắc đấy!
- Vâng, đúng thế, thưa ông. Mason xưa nay vẫn là
người tích cực lắm.
- Được. Thế ông có tin gì khác nữa không, ông
McDonald?
- Không, khi nào đến nơi, Mason sẽ cho biết.
- Thế thì tại sao ông lại biết Douglas bị ám sát?
- Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Douglas,
và ghi rõ là đã bị giết bởi một viên đạn súng săn
bắn vào giữa đầu. Cũng có ghi cả giờ báo động là
78trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói
thêm, đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi, nhưng
chưa bắt giữ ai, và vụ án này có một vài khía cạnh
kì lạ làm cho người ta phải bối rối.
- Vâng, ông McDonald, nếu ông cho phép thì chúng
ta hãy tạm ngưng ở đây. Hiện giờ thì tôi chỉ mới
thấy có hai điều là: Có một bộ óc lớn ở London và
một cái xác chết ở Sussex. Vấn đề là phải tìm được
sợi dây xích nối hai cái này lại với nhau.
3. TẤN BI KỊCH Ở BIRLSTONE
Làng Birlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà
nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc quận Sussex.
Trong hàng thế kỉ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên
phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng hai năm gần
đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những
79biệt thự ở xung quanh, trong các cánh rừng dọc theo
bờ của khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận
chân những ngọn đồi đá vôi ở bờ biển.
Lâu đài nằm cách làng khoảng nửa dặm Anh, trong
một khu vườn cũ nổi tiếng về những cây dẻ gai cực
lớn. Một phần của tòa lâu đài này đã được dựng lên
từ thời Đệ Nhất Thập tự chiến. Năm 1543, một trận
hỏa hoạn đã thiêu trụi tất cả. Một số gạch đã ám
khói còn sót lại đến thời Jacobean, đã được dùng để
xây nên một lâu đài khác trên nền của tòa lâu đài
cũ.
Tòa lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và
những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kính hình quả
trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỉ
thứ XVII. Về hai đường hào trước đây, thì nay chỉ
80còn lại đường bên trong. Đường hào ngoài đã được
tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng
rau. Đường hào còn lại bao quanh cả tòa lâu đài,
rộng đến bốn mươi feet nhưng sâu không quá vài
feet. Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy
vào, nên không hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới
cũng chỉ cao hơn mặt nước khoảng một foot. Lối đi
duy nhất để vào lâu đài là đi qua cầu rút, đã hư
hỏng từ lâu. Những người chủ lâu đài hiện nay cho
sửa chữa lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều
tối lại rút lên. Sự phục hồi lại truyền thống của
thời phong kiến đã biến tòa lâu đài ban đêm trở
thành một hòn đảo. Khi gia đình Douglas đến làm chủ
tòa lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát.
Gia đình chỉ gồm có hai người: Douglas và vợ ông
81ta.Douglas khoảng năm mươi tuổi, có một cái quai
hàm thật khỏe, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm,
một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng
điệu cứng cỏi. Những gia đình lân cận có học thức
hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè
dặt, nhưng ông thì lại rất được lòng của người dân
trong làng. Ông tham gia đóng góp rộng rãi vào tất
cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi
hòa nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ
cũng sẵn sàng góp vui bằng một bài hát hay. Hình
như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông
đã làm giàu trong các mỏ vàng ở xứ California.
Điều đó thì không biết có đúng không, nhưng chỉ
cần nghe ông nói chuyện cũng biết ông đã sống cả
một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng
82ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm.
Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những
cuộc đua ngựa là thế nào ông cũng tham dự, và cái
tính bướng bỉnh đó đã đem lại cho ông mấy lần ngã
ngựa đến kinh hồn. Khi bên nhà thờ bị cháy, lính
cứu hoả địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào
cứu những đồ đạc ra. Cứ như vậy, trong vòng năm
năm trời, Douglas trở thành một nhân vật nổi tiếng
ở Birlstone.
Vợ ông ta cũng được bạn bè kính nể. Ở đây, bà ít
đi lại chơi bời, nhưng số ít bạn bè này đã quá đủ
cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như
chỉ để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng. Người ta
biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc vào tầng
lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở
83London khi ông này góa vợ. Bà rất đẹp, vóc người
cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến
hai mươi tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá
khứ của chồng mình. Hình như bà ta không hiểu biết
gì nhiều lắm về ông ta. Một vài người còn thấy bà
vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về
muộn. Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế
này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu
chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận
càng xôn xao và cho rằng những điều nhận xét ấy có
một ý nghĩa rất đặc biệt.
Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không
sống ở đó một cách thường xuyên. Đó là ông Cecil
James Barker, chủ biệt thự Hales ở Hampstead. Cái
dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì
84ông ta hay đến lâu đài, và được người ở đó quý mến
lắm. Người ta nói rằng, ông là nhân chứng duy nhất
biết về quá khứ của ông Douglas. Barker chắc chắn
là một người Anh, nhưng qua những câu chuyện của
ông ta, thì có thể hiểu được rằng, ông ta quen biết
ông Douglas trước đây là ở bên Mỹ, và lúc đó hai
người sống với nhau rất thân thiết. Hình như ông ta
cũng giàu có lắm thì phải, và hiện vẫn chưa lập
gia đình. Ông ta trẻ hơn ông Douglas, chỉ độ bốn
mươi lăm tuổi là cùng, người cao lớn, lưng thẳng,
thân mình nở nang, mặt mũi nhẵn nhụi, không để râu.
Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh, và nhất là
đôi mắt đen áp đảo người khác.
Ông ta không đi săn, không cưỡi ngựa, suốt ngày cứ
ngậm cái tẩu đi dạo xung quanh làng. Nếu không thì
85lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ,
và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ. Người đầu
bếp trong lâu đài nói “Đó là một vị thượng lưu vô
tư và hào phóng”, nhưng cũng bổ sung thêm, “Nhưng
thực tình, tôi không bao giờ dại dột muốn cãi lại
ông ta. Ông ta rất nhiệt tình với ông Douglas, và
cũng không kém nhiệt tình với vợ ông Douglas”.
Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài,
thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Ames, nhanh
nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà Allen tươi tắn, phốp
pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. Còn
sáu người gia nhân khác thì không có dính dáng gì
đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó.
Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào lúc 12
giờ kém 15 phút đêm. Lúc đó là buổi trực của thượng
86sĩ Wilson thuộc cảnh sát quận Sussex. Ông Barker
đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin ông
Douglas đã bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vã trở
về lâu đài. Sau khi đã báo lên thượng cấp, thượng
sĩ Wilson đến ngay hiện trường. Khi đến nơi, Wilson
thấy chiếc cầu đã được hạ xuống, các cửa sổ đều
sáng đèn, và toàn thể lâu đài ở trong một tình
trạng rối loạn. Các gia nhân, mặt mũi xám ngoét,
đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp cứ
đứng vặn hai bàn tay vào nhau trên bậc cửa, chỉ
một mình ông là có vẻ tự chủ và kìm được sự xúc
động. Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời thượng sĩ đi
theo.
Cùng lúc đó, bác sĩ Wood ở trong làng cũng đến. Cả
ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm
87kịch. Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại.
Nạn nhân nằm ngửa, chân tay duỗi thẳng ở giữa
buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu
hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày
vải. Vị bác sĩ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống
bên cạnh xác chết, thoáng nhìn qua, ông lắc đầu:
Douglas đã chết. Một thứ vũ khí kì lạ được đặt chéo
lên ngực ông ta. Đó là một khẩu súng săn mà nòng
đã được cưa ngắn, chỉ cách cò súng khoảng một foot.
Rõ ràng là ông đã bị bắn rất gần vào ngay giữa
mặt. Cả hai cò súng đã được nối tiếp liền với nhau
bằng một sợi dây thép, để lúc bóp cò cả hai nòng
đều bắn một lượt, làm cho sức công phá càng ghê
gớm.
Viên cảnh sát nói thất thanh:
88- Không ai được sờ mó vào một tí gì ở đây, trước
khi cấp trên của tôi đến!
Ông Barker nói dứt khoát:
- Chưa có ai đụng gì vào đây cả, tất cả mọi vật
đều vẫn y nguyên như lúc đầu.
- Vào lúc mấy giờ? - Viên thượng sĩ đã rút cuốn sổ
tay ra.
- Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó tôi vẫn đang ngồi
trước lò sưởi ở trong phòng thì nghe thấy tiếng nổ.
Tiếng nổ không to lắm. Hình như có cái gì bịt kín
lại vậy. Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà. Tôi nghĩ
rằng từ trên đó xuống đến đây không quá ba mươi
giây đồng hồ.
- Lúc đó cửa có mở không?
- Cửa mở, ông Douglas thì nằm đúng như hiện giờ.
89Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm
việc. Sau đó một chút thì chính tôi đã thắp cây đèn
lên.
- Ông có trông thấy ai không?
- Không. Tôi nghe tiếng bà Douglas ở trên lầu chạy
xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà
khỏi trông thấy cảnh thương tâm này. Bà hầu phòng
Allen cũng chạy đến và đã dìu bà chủ đi lên. Rồi
anh đầu bếp Ames đến, và tôi với anh ta cùng đi vào
trong phòng.
- Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cũng kéo lên
kia mà?
- Đúng thế. Nhưng chính tôi đã hạ nó xuống để đi
báo cho ông.
- Như vậy thì tên sát nhân làm sao trốn ra được?
90Phải đặt vấn đề khác đi thôi: Có thể là ông Douglas
đã tự tử chăng?
- Chúng tôi cũng đã có nghĩ đến điều đó. Nhưng ông
xem đây này...
Ông Barker kéo tấm rèm để lộ ra một khuôn cửa sổ
cao mở toang. - Và mời ông hãy xem cái này nữa.
Ông Barker đưa đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có
một vết máu giống hệt như hình đế một chiếc giày.
- Rõ ràng là có người đã trèo qua đây.
- Có phải ông muốn nói rằng, có người đã chạy trốn
bằng cách vượt qua con hào này, phải không? Nhưng
mà nếu chưa đầy nửa phút sau vụ án, ông đã có mặt ở
đây, thì người ấy lúc đó còn phải đang lội nước.
- Chắc chắn là như vậy. Ôi, tiếc quá! Không hiểu
sao lúc đó tôi không nhảy bổ ngay qua cửa sổ. Bị
91cái rèm cửa này che khuất, thành ra tôi không nghĩ
ra nữa.
Vị bác sĩ cũng lẩm bẩm nói khẽ:
- Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát
bấy ra như vậy. Viên thượng sĩ vẫn cứ đứng ngắm mãi
khuôn cửa sổ mở rộng.
- Nhưng mà này, câu chuyện có người lội qua hào
nghe thì thú vị thật, nhưng hắn làm cách nào để vào
được lâu đài, vì chiếc cầu rút đã bị kéo lên rồi
kia mà?
- À vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó! - Ông
Barker nói.
- Thế mấy giờ thì người ta kéo cầu lên?
- Lúc đó là gần 6 giờ chiều - Đầu bếp Ames trả
lời.
92- Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút cầu lên vào
lúc mặt trời lặn. Như thế vào mùa này thì gần 4
giờ rưỡi đúng hơn là gần 6 giờ chứ! - Viên thượng
sĩ lại nhấn mạnh.
- Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng
đến cây cầu khi các vị khách chưa ra về. Chính tay
tôi đã rút cây cầu lên - Anh Ames giải thích.
- Nếu như có những người từ bên ngoài vào lâu đài
thì họ phải đi qua cầu trước 6 giờ, rồi trốn ở
trong này, vì ông chủ mãi sau 11 giờ đêm mới bước
vào căn phòng này.
- Đúng như thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông
Douglas cũng đi một vòng quanh lâu đài để xem đã
tắt hết đèn chưa. Chính trong khi đi vòng như vậy,
ông đã vào căn buồng này. Tên sát nhân đã đợi ông
93ta ở đây, và bắn thẳng vào ông ta. Rồi hắn trốn
bằng cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng - Barker
giải thích.
Viên thượng sĩ cúi đầu xuống nhặt một mẩu bìa cứng
ở bên cạnh xác chết, trên có ghi chữ “V.V.” và một
con số “341”, chữ viết rất thô kệch. Ông ta giơ
mẩu bìa lên hỏi:
- Cái gì thế này?
Ông Barker nhìn mẩu bìa một cách tò mò:
- Tôi cũng không để ý thấy nó. Có lẽ tên hung thủ
lúc chạy trốn đã bỏ rơi lại.
- V.V. 341. Tôi chẳng hiểu gì cả.
Viên thượng sĩ cứ xoay đi xoay lại mãi mẩu bìa.
- V.V? Có lẽ là những chữ đầu tên của một người
nào đấy chăng? Bác sĩ Wood, bác sĩ có cái gì đó?
94Ông bác sĩ đã nhặt được một chiếc búa khá to trước
lò sưởi. Ông Barker chỉ vào một hộp dính dầu bằng
đồng đặt trên mặt lò sưởi, giải thích:
- Ngày hôm qua, ông Douglas có thay đổi chỗ treo
mấy bức tranh. Tôi thấy ông ta đứng trên chiếc ghế
này để treo bức tranh lớn bên trên. Việc đó cắt
nghĩa tại sao lại có chiếc búa trên đây.
Viên thượng sĩ gãi đầu ra vẻ khó nghĩ.
Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi tìm thấy
nó thì hơn. Phải những cái đầu giỏi nhất ở
Scotland Yard mới hiểu thấu đáo được mọi việc.
Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn
phòng. - Có người đã trốn ở đây, chắc chắn là như
thế...Ông thượng sĩ hạ cây đèn thấp xuống: Ở một
góc, thấy những vết giày có dính bùn rất rõ.
95- Việc phát hiện này là phù hợp với giả thiết của
ông, ông Barker ạ. Có thể là tên hung thủ đã vào
lâu đài sau 4 giờ chiều, khi những tấm rèm cửa sổ
đã được buông xuống; và trước 6 giờ, khi cây cầu
được rút lên. Hắn lẩn ngay vào đây, và trốn đằng
sau bức rèm này. Rất có thể ý định của hắn là vào
ăn trộm, nhưng chẳng may ông Douglas lại bắt gặp
hắn, thế là hắn giết ông ta và chạy trốn.
- Tôi cũng nghĩ gần giống như vậy. Nhưng ông có
thấy rằng chúng ta đã mất bao nhiêu thời giờ quý
báu rồi không? Tại sao chúng ta không kéo cả mọi
người ra đi lùng sục khám xét khắp xung quanh,
trước khi hung thủ có thể trốn thoát được? - Barker
đề nghị.
Viên thượng sĩ cắn môi suy nghĩ một lát:
96- Không có chuyến tàu nào chạy trước 6 giờ sáng.
Vậy hắn không thể trốn thoát đi bằng tàu hỏa. Nếu
hắn đi đường bộ thì với cái quần ướt sũng, thế nào
hắn cũng bị người ta để ý. Nhưng dù sao tôi cũng
không thể rời khỏi đây được trước khi có người đến
thay tôi.
Vị bác sĩ cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một
lần nữa. Ông bỗng hỏi:
- Cái vết này là cái gì đây? Nó có liên quan gì
đến vụ án này không?
Cánh tay áo bên phải của người chết đã được kéo
lên khuỷu tay, ở giữa cánh tay thấy nổi lên trên da
hình màu nâu của một tam giác nằm trong một vòng
tròn.Bác sĩ Wood nói:
- Đây không phải là một vết xăm. Tôi nghĩ hình như
97người này đã bị đánh dấu bằng một cái khuôn nung
đỏ, giống như người ta đánh dấu đàn gia súc vậy -
Bác sĩ nói thêm - Thế này là thế nào?
- Tôi không hiểu được. Có điều là từ mười năm nay,
tôi đã nhiều lần nhìn thấy cái dấu này trên tay
ông Douglas - ông Barker nói.
- Tôi cũng đã thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay
áo lên - Anh đầu bếp bảo.
- Nếu như vậy thì nó không dính dáng gì đến vụ án
mạng này rồi. Nhưng dù sao thì nó cũng thật kì lạ.
Trong vụ này không có cái gì là bình thường cả. Tôi
cũng không hiểu bây giờ còn xảy ra những gì nữa
đây - Viên thượng sĩ kết luận.
Anh đầu bếp vừa thét lên kinh ngạc và chỉ vào bàn
tay duỗi thẳng ra của người chết, nói lắp bắp:
98- Hắn tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông ấy rồi!
- Cái gì?
- Ông chủ tôi đeo một chiếc nhẫn bằng vàng ở bên
trong một chiếc nhẫn khác có gắn một hạt ngọc;
chiếc nhẫn có hạt ngọc còn đây, nhưng chiếc nhẫn
cưới thì biến mất rồi.
- Anh ấy nói đúng đấy! - Barker lên tiếng.
- Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong
chiếc nhẫn có gắn ngọc? - Viên thượng sĩ hỏi lại.
- Thưa vâng.
- Thế thì hung thủ đã tháo chiếc nhẫn có ngọc ra,
rồi sau đó hắn mới đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi
lại đeo chiếc nhẫn có hạt ngọc vào tay người chết.
- Như vậy đó.
Viên thượng sĩ lắc đầu lia lịa:
99- Chúng ta hãy báo cáo tất cả về London. Ông Mason
là một tay cừ khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào
làm ông ấy phải lúng túng cả. Còn về phần tôi, tôi
xin thú thật là vụ này vượt quá sức hiểu biết của
tôi.
4. TỐI MÒ
Ông Mason trông có vẻ bình tĩnh và thoải mái. Ông
mặc một bộ quần áo vải tuýt rộng thùng thình, chân
đi ghệt. Trông ông giống như một ông chủ trại cỡ
nhỏ, một người gác rừng đã về hưu, hơn là giống một
người đại diện của cơ quan cảnh sát hình sự cấp
tỉnh. Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại:
- Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông
McDonald. Tôi mong rằng chúng ta sẽ làm tốt được
nhiều việc, trước khi bọn kí giả nhúng mũi vào cuộc
100điều tra và làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi
tiết có lẽ sẽ làm ông vui lòng, thưa ông Holmes.
Cả đối với ông cũng thế, thưa ông bác sĩ Watson.
Buồng của các ông đã được đăng kí trước ở khách sạn
Westville Arms. Thôi để bác khuân vác trông coi
hành lí, và xin mời các ông vui lòng đi theo tôi.
Chỉ sau mười phút là chúng tôi đã có phòng ở, và
mười phút sau nữa, chúng tôi đã ngồi cả trong phòng
khách của khách sạn. McDonald giở sổ tay ra ghi.
Còn Holmes thì có dáng điệu của một nhà thực vật
học, vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghía một bông hoa.
Sau khi nghe xong câu chuyện, anh reo lên:
- Tuyệt! Thật là tuyệt! Chưa có một vụ nào kì lạ
như vụ này. Ông Mason hớn hở:
- Vâng, tôi đã trình bày với các ông tất cả những
101gì mà thượng sĩ Wilson báo cáo với tôi. Thượng sĩ
đã nắm được hết mọi sự kiện. Tôi đã có kiểm tra
lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít.
- Thế ông có biết thêm điều gì mới nữa không? –
Holmes hỏi.
- Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không tìm thấy
một dấu vết gì của bạo lực cả.
Ông thanh tra McDonald lưu ý:
- Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng
búa, mà trên chiếc búa có thấy dấu vết gì đâu.
- Đúng như vậy. Sau đó, tôi xem xét đến khẩu súng.
Súng được lắp đạn ghém, hai cò súng được buộc với
nhau, chỉ cần bóp cò sau thì cả hai viên đạn ở hai
nòng đều nổ một lúc. Nòng súng bị cưa ngắn đi, như
vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác.
102Toàn bộ tên của nhà sản xuất thì không thấy có,
nhưng trên những đường góc giữa hai nòng súng thấy
còn lại chữ “pen”, các chữ khác thì bị cưa đi mất
rồi.
Holmes hỏi luôn:
- Một chữ “p” hoa, có vẽ hoa lá bên trên, và một
chữ “e”, một chữ “n” nhỏ hơn có phải không ạ?
- Đúng đấy ạ.
- Hãng sản xuất súng Mỹ tên là “Pensylvania Small
Arms Company”.
Ông Mason nhìn Holmes với cặp mắt của một ông thầy
lang ở nông thôn nhìn một đại chuyên gia trong
ngành y tế.
- Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là một khẩu súng
Mỹ rồi. Tôi có đọc ở đâu đấy rằng súng săn cưa
103nòng chính là một loại vũ khí thường dùng trong một
số vùng nào đó ở Mỹ. Như vậy, có rất nhiều khả
năng là cái tên đã lọt vào trong lâu đài và giết
ông chủ nhà ở đây là một tên Mỹ.
McDonald gật gù:
- Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ gì để
tin rằng có một kẻ lạ mặt đã lọt vào trong này.
- Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu bìa
cứng, vết giày ở góc nhà, khẩu súng...
- Mấy thứ đó chẳng có gì mà không bố trí trước
được. Ông Douglas vốn là một người Mỹ, ông Barker
cũng thế, vậy thì đâu nhất thiết phải đưa một người
Mỹ khác từ ngoài lọt vào để giải thích những chi
tiết Mỹ đó.
- Ames, người đầu bếp...
104- Anh ta có đáng tin cậy không?
- Anh ta ở với gia đình Douglas từ năm năm nay.
Anh ta chưa hề trông thấy khẩu súng này trong nhà.
- Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày
cho mọi người thấy. Chính vì thế người ta mới đem
cưa nòng của nó đi. Nó có thể đem cất giấu vào bất
cứ một cái hộp nào. Làm sao Ames lại có thể đoán
chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng
loại này?
- Nhưng dù sao tôi cũng chưa trông thấy nó bao
giờ. McDonald vẫn lắc đầu không chịu:
- Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào
đây. Tôi xin các ông hãy thử suy nghĩ xem, hậu quả
sẽ như thế nào khi giả thiết rằng, khẩu súng này là
do một người từ bên ngoài mang vào, và người này
105đã hành động như các ông vừa nói?
Holmes lấy cái giọng rất “chánh án” chỉ McDonald,
nói:- Ông McDonald, tòa nghe lời khai của ông.
- Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm
thường. Chuyện chiếc nhẫn và mẩu bìa cứng đã chứng
tỏ rằng, đây là một vụ giết người có âm mưu, vì một
lí do cá nhân nào đó mà ta chưa rõ.
- Vậy hung thủ đã lẩn vào trong nhà với ý định gây
ra một vụ án - Mason nói - Hắn biết sẽ gặp khó
khăn khi muốn thoát ra, vì lâu đài được bao bọc bởi
một đường hào đầy nước. Vậy thì hắn sẽ chọn thứ vũ
khí gì? Chắc các vị sẽ trả lời tôi: Một vũ khí
thầm lặng, hắn có thể hi vọng chui nhanh qua cửa
sổ, lội qua con hào, rồi bình tĩnh chạy trốn đi.
Như vậy, thì tôi có thể chấp nhận được. Còn nói hắn
106chọn một khẩu súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ
làm cho mọi người trong nhà đổ xô đến, và hắn sẽ
bị phát hiện trước khi lội qua con hào, liệu luận
cứ này có lí không thưa ông Holmes?
Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Tất nhiên là ông đã trình bày sự việc một cách
không thể chối cãi được. Nhưng mà phải có chứng
minh. Tôi xin phép được hỏi ông Mason, không biết
ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để tìm
những dấu vết của người từ dưới nước lội lên
không?
- Ở đó không có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây
bằng đá, thành ra cũng khó thấy.
- Không có một cái vết, không có một dấu in nào,
không có gì cả hay sao?
107- Tuyệt đối không.
- À, nếu thế thì bây giờ tất cả chúng ta cùng đi
ngay ra đấy xem lại!
- Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt
hơn cả là tôi thông báo hết mọi chuyện để ông nắm
trước khi ra đấy.
Mason nhìn Holmes, không tin tưởng gì lắm. Ông
thanh tra McDonald nói:
- Tôi đã có làm việc với ông Holmes, và ông đã
chịu vào cuộc với chúng ta rồi.
Holmes cười tủm tỉm:
- Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi
về cách chơi. Tôi có chú ý đến một vụ nào, cũng cốt
là để giúp đỡ công lí và công việc của cảnh sát mà
thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh sát thì
108cũng chỉ vì cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rõ
như thế rồi, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo
những phương pháp riêng, và khi nào thấy có thể
được, tôi sẽ xin thông báo với ông những kết quả
toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một.
Ông Mason nói:
- Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác
sĩ Watson, chúng tôi hi vọng rằng sau này, chúng
tôi sẽ được dành cho một chỗ trong những tác phẩm
của ông.
Chúng tôi đi xuôi xuống con đường làng giữa hai
cây dương đã hớt ngọn, ở phía dưới hai cây cột bằng
đá phủ rêu, còn dấu vết của con sư tử đá ngày xưa.
Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, chúng tôi trông
thấy tòa nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Tòa lâu đài
109đã qua ba thế kỉ, chứng kiến biết bao sự ra đời,
bao lần đi xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu
vũ, bao nhiêu cuộc hẹn hò. Nay những bức tường cổ
kính này lại phải chứng kiến một tấn thảm kịch
thương tâm.
Mason chỉ cho chúng tôi:
- Đó, cửa sổ đó. Cái cửa sổ ngay bên phải, sát cây
cầu rút. Nó được mở toang ra đúng như trong đêm
hôm qua.
- Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được?
- Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi,
chúng ta đều chui qua được một cách dễ dàng.
Holmes đi tới con hào, xem xét bãi cỏ cùng bờ đá.
Mason nhắc lại:
- Tôi đã xem kĩ lắm rồi, không có bất cứ một dấu
110vết gì chứng tỏ có một người từ dưới nước đi lên.
- Ở đây cứ luôn luôn đục bùn thế này?
- Thường thì nước có màu này. Dòng nước sông đưa
phù sa vào.
- Nó sâu bao nhiêu?
- Ở gần bờ thì khoảng hai feet, còn giữa thì ba
feet.
- Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn
đã bị chết đuối khi lội qua hào.
- Trẻ con cũng không chết đuối.
Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút, và một nhân vật
gầy gò ra mở cửa cho chúng tôi: Đó là Ames. Anh
chàng vẫn còn run rẩy. Thượng sĩ ngồi cạnh trong
căn phòng xảy ra án mạng. Ông bác sĩ Wood đã về.
Ông Mason hỏi:
111- Có gì mới không, thượng sĩ Wilson?
- Thưa ông, không có gì.
- Thế thì anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ
báo sau. Anh bảo anh đầu bếp hãy đi báo cho ông
Barker, bà Douglas và bà hầu phòng rằng chúng tôi
cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin trình bày quan điểm
riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm
của các ông...
Cái ông cảnh sát ở tỉnh lẻ này xem ra mới đàng
hoàng làm sao. Ông ta nắm rất vững mọi sự kiện và
có một bộ óc sáng suốt, lạnh lùng, nhất định ông ta
sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe ông ta
nói một cách chăm chú.
- Đây là một vụ tự sát? Hay một vụ ám sát? Nếu đây
là một vụ tự sát thì chúng ta phải tin rằng, người
112này bắt đầu tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đem
giấu đi. Rồi người đó đi xuống đây, đặt đôi giày có
dính đầy bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho
người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở
toang cửa sổ, bôi máu lên thành...
Ông McDonald cắt ngang:
- Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này.
- Vậy thì đã xảy ra một án mạng. Chúng ta phải tìm
xem hung thủ là người trong nhà hay từ ngoài vào.
- Chúng tôi xin nghe lập luận của ông.
- Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp
phải những khó khăn lớn. Nhưng không thể có một giả
thiết thứ ba. Chỉ một trong hai giả thiết đó thôi.
Trước hết chúng ta hãy giả thiết: Hung thủ là
người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đã hạ ông
113Douglas trong một thời điểm mà tất cả mọi sự đều
yên tĩnh, nhưng chưa ai đi ngủ cả. Mặt khác, chúng
đã gây án mạng bằng một vũ khí kì lạ nhất và ầm ĩ
nhất, để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà
trước đó chưa ai nhìn thấy ở trong nhà. Như vậy
thật cũng khó tin quá.
- Vâng, khó tin thật.
- Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này.
Sau khi báo động, chỉ chưa đầy một phút, mọi người
đã có mặt ở hiện trường. Như vậy thì liệu các ông
có tin được rằng, trong một khoảng thời gian rất
ngắn mà hung thủ đã làm rất nhiều việc: In các dấu
chân trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên
thành cửa, rút chiếc nhẫn cưới ra rồi lại gắn
vào...
114Holmes tán thành:
- Ông đặt vấn đề một cách rất rõ ràng. Tôi ngả
theo quan điểm của ông.
- Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả
thiết vụ án mạng do một người ở ngoài gây ra. Tên
sát nhân đã lọt vào nhà trong khoảng thời gian từ 4
giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách,
cửa mở rộng, nên không có gì ngăn được hắn. Cũng có
thể hắn chỉ là một tên ăn trộm tầm thường thôi.
Cũng có thể hắn là một người có hận thù riêng gì
với ông Douglas. Hắn đã chui vào căn phòng này và
đã trốn ở đằng sau rèm cửa. Hắn đứng ở đó đến quá
11 giờ đêm. Vào giờ này, ông Douglas bước vào
phòng. Cuộc đối thoại với tên sát nhân rất ngắn
ngủi, vì bà Douglas khai rằng, chồng bà mới đi
115xuống chừng vài phút thôi là bà đã nghe tiếng súng
rồi.
- Cây nến cũng phù hợp với điều đó - Holmes nói.
- Đồng ý. Cây nến còn mới, chỉ cháy khoảng nửa
inch, chắc ông ta đã đặt nó lên bàn trước khi bị
tấn công, nếu không, nó đã rơi xuống đất khi ông ta
ngã. Điều này công chứng tỏ là ông ta không bị tấn
công ngay khi vừa bước vào phòng.
- Tất cả đều rõ ràng.
- Bây giờ chúng ta có thể hình dung lại diễn biến
của vụ án: Ông Douglas bước vào phòng, đặt cây nến
lên bàn. Một người từ sau bức rèm hiện ra. Hắn có
mang cây súng. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới. Ông Douglas
đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Douglas vì
ông này đã vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi
116khẩu súng xuống, và cả mẩu bìa cứng có mang chữ
“V.V. 341”. Rồi hắn chạy trốn qua cửa sổ và lội qua
hào giữa lúc ông Barker phát hiện ra vụ án mạng.
Ông nghĩ thế nào, ông Holmes?
- Rất hay, nhưng chưa thuyết phục được người nghe.
Ông McDonald kêu lên:
- Ông bạn thân mến, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy
là hắn sẽ hành động theo một cách khác. Tại sao
hắn không sợ bị người khác bắt gặp khi chạy trốn?
Tại sao hắn dám dùng một khẩu súng khi hắn biết
rằng, muốn thoát thì phải dùng một vũ khí thầm
lặng?
- Nào, ông Holmes, bây giờ xin ông cho ý kiến.
Holmes hết liếc mắt từ phải sang trái rồi từ trái
117sang phải. Anh đứng dậy, đến quỳ bên xác chết.
- Tôi muốn có thêm một vài sự kiện bổ sung, trước
khi đi vào một giả thiết, thưa ông McDonald. Những
vết thương này thật là khủng khiếp. Có thể cho anh
đầu bếp vào đây một lát được không, các ông? Anh
Ames, tôi chắc rằng anh đã được nhìn thấy nhiều lần
cái hình rất kì lạ này, một tam giác trong một
đường tròn, áp bằng sắt nung đỏ lên cẳng tay của
ông Douglas phải không?
- Vâng, thưa ông, nhiều lần ạ.
- Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể
giải trình được ý nghĩa của cái dấu ấy không?
- Thưa ông, không.
- Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấy. Rõ
ràng là một vết bỏng. Này anh Ames, bây giờ tôi
118trông thấy một miếng băng dính ở dưới cằm ông
Douglas. Anh có nhận thấy không?
- Thưa ông, có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đã bị đứt
khi cạo mặt.
- Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không?
- Thưa ông, hầu như không.
- Rất hay. Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên
thôi. Nếu không thì điều ấy chứng tỏ, ông ta đang
lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. Anh Ames, ngày
hôm qua anh có nhận thấy có điều gì khác thường
trong sinh hoạt của ông chủ không?
- Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt.
- À, thế thì hình như chúng ta đã tiến thêm được
vài bước. Ông McDonald, ông có muốn đích thân hỏi
thêm gì nữa không?
119- Không, xin nhường cho những người cao minh hơn.
- Nếu vậy thì chúng ta quay sang mẩu bìa “V.V.
341”. Đây là một loại bìa cứng hạng tồi, ở trong
nhà có thứ bìa nào giống thế này không?
- Thưa ông, không ạ.
Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ một
vài giọt trên giấy thấm.
- Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết
bằng mực đen, còn mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại
viết bằng một ngòi bút to nét, còn những ngòi bút ở
đây đều nhỏ nét cả.
- Không, những chữ này đã được viết ở nơi khác
rồi. Anh Ames, anh có cho rằng những chữ này có ý
nghĩa gì không?
- Thưa ông, tôi không biết.
120- Ông nghĩ thế nào, ông McDonald?
- Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở trên
cánh tay kia cũng thế.
- Tôi cũng nghĩ như vậy - ông Mason lên tiếng.
- Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của
một hội kín lọt vào trong lâu đài, chờ ông Douglas
và bắn vỡ sọ ông ta, rồi trốn ra bằng đường hào,
sau khi đã vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu bìa
cứng, có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ
báo tin cho các thành viên khác của hội biết rằng,
việc trả thù đã hoàn thành. Tất cả mọi cái đều
khớp.
- Nhưng tại sao lại dùng súng mà không dùng bất cứ
một thứ vũ khí nào khác?
- Đúng thế.
121- Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất?
- Đồng ý.
- Tại sao người ta lại chưa bắt gặp được người
nào? Bây giờ là 2 giờ chiều rồi, tôi chắc rằng từ
rạng đông đến giờ, tất cả cảnh sát đang truy lùng
một người lạ mặt quần áo ướt và lấm bùn.
- Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ.
- Nếu hắn không có một nơi ẩn nấp ở gần đây, và
nếu hắn không thay được quần áo, thì cảnh sát không
để lọt lưới. Ấy vậy mà cho đến giờ này, hắn đã lọt
lưới thật...
Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp
ra, xem xét vết máu trên thành cửa.
- Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn bình
thường. Phải nói là giống như một bàn chân phẳng.
122Một điều kì lạ khác nữa: Cái vết chân dính bùn ở
góc nhà kia lại có vẻ bình thường hơn vết này. Nói
cho ngay ra, thì tất cả đều mờ nhạt không rõ ràng.
Còn cái gì ở dưới gầm chiếc bàn con thế kia?
- Những quả tạ của ông Douglas - Ames đáp.
- Chỉ thấy có một quả thôi. Còn quả kia đâu?
- Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một
quả thôi. Đã hàng tháng nay tôi không nhìn xuống
đó.
Holmes nói một cách trầm ngâm: - Một quả tạ...
Một tiếng gõ cửa đã ngắt lời anh. Một người đàn
ông cao lớn, mặt cạo nhẵn nhụi, da rám nắng, trông
thông minh, lanh lẹ bước vào. Đó là Barker. Đôi mắt
quen ra lệnh của ông ta đảo nhìn chúng tôi một
lượt.
123- Tôi xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc họp của các
ông, nhưng tôi muốn báo cho các ông một tin cuối
cùng.
- Đã bắt được rồi ư?
- Chưa. Nhưng người ta đã tìm thấy chiếc xe đạp,
hung thủ đã bỏ nó lại. Xin mời các ông ra xem. Chỉ
cách cửa ngoài không đầy một trăm yard thôi.
Mấy gia nhân cùng những người hiếu kì đang ngắm
nghía một chiếc xe đạp mà người ta vừa lôi ở trong
một bụi cây ra. Cái túi sau yên xe đựng một chiếc
cờ-lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có một chỉ
dẫn nào về người chủ của nó. Ông thanh tra thở dài,
nói:
- Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có
mang biển số, chúng ta sẽ biết được chủ nó đi từ
124đâu đến. Nhưng mà tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe
đạp? Làm thế, hắn không đi xa được. Ông Holmes này,
hình như chúng ta chưa có được một tia sáng nào.
- Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy - Holmes đáp.
5. NHỮNG NHÂN VẬT CỦA TẤN THẢM KỊCH
Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng, ông Mason còn
hỏi lại:
- Các ông đã xem xét kĩ căn phòng này chưa?
- Hiện nay thì đủ rồi - Ông thanh tra đáp. Holmes
cũng gật đầu đồng ý.
- Bây giờ thì chắc các ông muốn nghe lời khai của
một vài người ở trong lâu đài này. Anh Ames, chúng
tôi sẽ làm việc ở trong phòng ăn. Trước hết, anh
hãy nói cho chúng tôi nghe tất cả những gì mà anh
125biết.
Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đã thuyết phục
được người nghe. Anh ta đã được nhận vào làm năm
năm trước đây, khi ông Douglas vừa đến ở Birlstone.
Ông Douglas là một người có của và đàng hoàng, đã
từng làm giàu ở bên Mỹ, ông tỏ ra là một ông chủ
tốt và hào phóng. Ông Douglas ra lệnh mỗi buổi
chiều phải kéo cây cầu lên để nối tiếp lại một
phong tục cũ của tòa lâu đài cổ này. Ông rất ít khi
đi London, và cũng ít khi rời khỏi làng. Nhưng một
ngày trước hôm xảy ra án mạng, ông đi lên
Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm
sau, chính Ames nhận xét thấy ông Douglas có vẻ hơi
nóng nảy, cáu gắt và điều này thật là khác thường.
Lúc xảy ra án mạng, Ames đang ở trong bếp, cất dọn
126đồ chén bát bằng bạc. Chính lúc đó anh nghe tiếng
kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng
súng nổ, vì từ bếp lên đến căn phòng ấy, còn phải
qua một dãy hành lang dài và mấy lớp cửa đóng.
Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà hầu phòng
phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà trên.
Khi đến chân cầu thang thì bà Douglas ở trên lầu
đang đi xuống. Không, bà không có dáng vội vàng. Và
Ames có cảm giác là bà không bối rối. Khi bà
Douglas xuống đến bậc thang cuối cùng, thì ông
Barker từ trong căn phòng chạy ra, ngăn và xin bà
đi trở lại. Ông ấy kêu lên:
- Bà hãy trở lên phòng ngay đi. Ông ấy đã chết
rồi. Bà lên đi!
Ông Barker phải nói mãi bà Douglas mới chịu lên
127phòng. Bà không khóc. Bà không làm ồn ào. Bà hầu
phòng Allen đã dìu bà lên và ở trong phòng với bà.
Ames và ông Barker lúc đó mới đi vào trong căn
phòng. Bấy giờ ngọn nến không cháy, mà cây đèn lại
cháy. Cả hai người nhìn qua cửa sổ, nhưng đêm tối
đen như mực, và không nghe thấy gì cả. Họ đổ xô ra
buồng ngoài, và Ames đã hạ cây cầu rút xuống để ông
Barker chạy đi báo cảnh sát.
Lời khai của bà hầu phòng Allen cũng khớp với lời
khai của Ames. Buồng riêng của bà hầu phòng ở gần
phía nhà trên hơn là chỗ bếp của Ames. Bà đang đi
ngủ, thì nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà có hơi
nặng tai. Không biết có phải vì thế mà bà không
nghe thấy tiếng súng chăng? Khi anh Ames chạy lên
nhà trên, thì bà cũng chạy theo anh ta. Bà có trông
128thấy ông Barker mặt bối rối từ trong phòng đi ra.
Ông ta chạy đến trước mặt bà Douglas, lúc đó ở trên
cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Douglas
đi lên, và bà ta có trả lời điều gì đó mà bà Allen
nghe không rõ. Ông Barker ra lệnh cho bà:
- Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà
chủ.Bà đưa bà chủ lên lầu, về phòng và cố khuyên
bà chủ bình tĩnh lại. Bà Douglas, chân tay run bắn,
nhưng cũng không muốn đi xuống nữa. Bà mặc chiếc
áo khoác, ngồi vào bên lò sưởi, hai tay ôm lấy đầu.
Bà Allen đã ở lại đó cả đêm với bà.
Còn các gia nhân khác, thì họ đều đi ngủ cả, và
chỉ được báo động dậy trước lúc cảnh sát đến một
chút thôi.
Đến lượt ông Barker. Về những sự việc xảy ra đêm
129hôm qua, ông cũng khai y như đã khai với thượng sĩ
Wilson. Riêng ông, ông tin chắc tên sát nhân đã
trốn qua cửa sổ. Theo ông thì vết máu trên thành
cửa sổ không cho phép người ta nghi ngờ điều đó.
Nhưng ông không hiểu vì sao hung thủ lại có thể
biến đi được, hoặc tại sao lại không chịu trốn bằng
xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của hắn.
Về vụ án mạng này, ông có một quan điểm rất rõ
ràng. Ông Douglas là người kín đáo, di cư sang Mỹ
từ thời còn thanh niên, đã làm ăn phát đạt và
Barker đã quen biết ông ta ở California. Hai người
chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả rất tốt
đẹp. Đột nhiên Douglas bán lại phần của ông ta và
trở về Anh. Lúc đó Barker vừa góa vợ. Ít lâu sau,
Barker chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi về
130London, vì thế hai người lại nối lại tình bạn cũ.
Douglas làm cho Barker có cảm giác rằng, có một mối
nguy hiểm nào đó đang treo trên đầu mình, và
Barker tưởng tượng một hội kín nào đó, có mối thù
không đội trời chung với Douglas đã lần theo và
định thủ tiêu Douglas. Chính một vài câu nói của
Douglas đã làm nảy sinh ý nghĩ này trong đầu
Barker, chứ bản thân Barker thì chưa bao giờ hỏi về
cái hội kín này. Barker đoán rằng những chữ viết
trên mẩu bìa cứng là có liên quan đến hội kín.
Ông thanh tra McDonald hỏi:
- Ông đã sống với ông Douglas trong bao lâu ở
California?
- Khoảng năm năm.
- Lúc đó Douglas sống độc thân?
131- Góa vợ.
- Bà vợ thứ nhất của Douglas là người nước nào?
- Thuỵ Điển. Tôi có thấy ảnh của bà ta. Đó là một
phụ nữ rất đẹp, chết trước khi chúng tôi quen nhau
một năm.
- Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta
ở một vùng nào cụ thể bên Mỹ không?
- Douglas có nói với tôi là ở Chicago. Ông ta biết
rất rõ thành phố này và đã làm việc ở đó. Ông ta
cũng có nói với tôi về những vùng mỏ khai thác than
và sắt.
- Ông Douglas có làm chính trị không? Cái hội kín
này có mục đích chính trị không?
- Không. Ông ấy không bao giờ để ý đến chính trị.
- Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp
132không?
- Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại
thẳng thắn, dứt khoát như ông Douglas.
- Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết gì
đặc biệt về cuộc đời của Douglas ở California được
không?
- Lúc đó, ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi
đến những nơi đông người khi nào bắt buộc lắm mà
thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ về châu Âu, thì một
tuần lễ sau có sáu người đến tìm ông ta.
- Loại người như thế nào?
- Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo đến
khu mỏ và muốn biết Douglas đang ở đâu. Tôi nói là
ông ta đã trở về châu Âu, và tôi không biết địa
chỉ.
133- Họ là người Mỹ? Người California?
- California thì tôi không biết. Nhưng người Mỹ
thì chắc chắn rồi, không phải là dân thợ mỏ.
- Cách đây có đến sáu năm không?
- Gần bảy năm.
- Thế mà hai ông đã sống với nhau năm năm ở
California. Vậy thì cái vụ hội kín này phải cách
đây ít nhất đến mười một năm.
- Đúng thế!
- Một mối thù dai dẳng.
- Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn
trong đầu ông ta.
- Khi một người cảm thấy mình bị đe dọa, thì người
đó phải nhờ cảnh sát bảo vệ chứ?
- Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan
134cảnh sát không làm gì được cũng nên. Nhưng có một
điều này các ông cần phải biết: Ông Douglas không
khi nào đi ra ngoài mà lại không mang vũ khí. Nhưng
hôm qua ông ấy mặc chiếc áo khoác ở nhà, và để
khẩu súng ở trong buồng. Có lẽ vì thấy chiếc cầu
rút đã kéo lên, nên ông ấy cho thế là an toàn
chăng?
Ông McDonald hỏi thêm:
- Sáu năm trước, ông Douglas đã rời California.
Đến năm sau thì ông cũng bỏ đi nốt phải không?
- Vâng, đúng thế.
- Ông ta lấy vợ khác từ năm năm nay. Vậy thì ông
trở về Anh vào lúc ông ta cưới vợ chứ?
- Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm
chứng của ông ta.
135- Thế ông có quen biết bà Douglas trước khi cưới
không?
- Không. Tôi đã rời khỏi nước Anh từ mười năm rồi.
- Nhưng từ đó đến nay ông đã gặp bà ta nhiều lần
rồi chứ? Barker nhìn ông thanh tra một cách hết sức
nghiêm trang:
- Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến
giờ. Còn nếu tôi có gặp bà ta đi nữa, thì bởi vì
không thể ở trong nhà một người mà lại không biết
đến vợ người đó - nếu ông tưởng tượng rằng có mối
liên quan nào.
- Tôi chẳng tưởng tượng gì cả. Tôi có nhiệm vụ
phải tìm tất cả những gì có thể liên quan đến vụ
án. Nhưng tôi không muốn làm mất lòng ai.
136Barker đáp một cách khô khốc:
- Có những cái tìm kiếm làm mất lòng người đấy,
ông thanh tra à!
- Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự
việc này được trình bày ra đây một cách sáng tỏ,
thì điều này chỉ có lợi cho ông, và cho mọi người.
Ông Douglas có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông
đối với vợ ông ta không?
Barker tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói
to tiếng:
- Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy.
Việc này có liên quan gì đến vụ án mà ông đang điều
tra?
- Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa
ông?
137- Ông cứ nhắc lại, còn tôi, tôi không trả lời.
- Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết
rằng, chính cái việc từ chối đã là một câu trả lời
rồi. Bởi vì ông sẽ chịu trả lời nếu ông không có
điều gì phải giấu giếm.
Barker ngồi im lặng một lát, nét mặt căng thẳng.
Rồi ông ta trở lại thư thái hơn, nhìn chúng tôi,
mỉm cười:
- Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm
nhiệm vụ của mình thôi. Tôi muốn nói với các ông
rằng, Douglas có một tính xấu là hay ghen. Ông ta
rất quý mến tôi. Và ông ta cũng quý vợ ông ta lắm.
Mỗi lần tôi đến đây, ông ấy đều vui lòng. Lâu tôi
không đến là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy,
khi ông ta thấy vợ mình và tôi ngồi nói chuyện với
138nhau thì ông ta nổi nóng đến mức nói chẳng ra gì
nữa. Đã nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân
đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi thì ông ấy lại
viết thư cho tôi, những bức thư rất dễ thương làm
tôi không thể giận lâu hơn được nữa. Và sau đây là
lời nói khẳng định của tôi: Không có một người phụ
nữ nào lại yêu chồng và chung thủy như bà Douglas.
Ông thanh tra McDonald hỏi:
- Ông có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đã bị
rút ra khỏi ngón tay của người ấy không?
- Hình như thế.
- Tại sao ông lại nói là “hình như thế”? Ông biết
rõ đây là một việc có thật kia mà.
Barker có vẻ lúng túng:
- Khi tôi nói “hình như thế” là tôi muốn nói rằng,
139cũng có thể chính nạn nhân đã tự mình rút chiếc
nhẫn đó ra.
- Việc chiếc nhẫn cưới biến mất đã gợi ý cho mọi
người thấy rằng có một mối liên quan nào đó giữa
đám cưới của ông Douglas và vụ án này. Có phải
không ông?
Barker nhún vai trả lời:
- Tôi sẽ không đi tìm xem nó gợi ý cái gì, nhưng
nếu ông muốn ám chỉ rằng việc đó làm tổn thương đến
danh dự của bà Douglas thì... - Hai mắt ông ta
long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả
nghị lực để kìm hãm xúc cảm - ... Thì ông đã đi lầm
đường rồi đấy. Có thế thôi.
Ông thanh tra McDonald lạnh nhạt nói:
- Tạm thời bây giờ tôi không hỏi thêm ông nữa...
140Holmes vội bác ngay:
- Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Barker. Khi
ông bước vào trong phòng, thì chỉ có một ngọn nến
thắp để trên bàn, có phải không?
- Vâng.
- Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đã
trông thấy có một việc khủng khiếp vừa xảy ra, phải
không?
- Đúng thế.
- Ông đã tức khắc kéo chuông ngay để báo động?
- Vâng.
- Và mọi người đã đổ ngay đến đấy chỉ sau một
khoảng thời gian rất ngắn. Có phải không?
- Chỉ sau không đầy một phút.
- Ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn
141nến được tắt đi và ngọn đèn thì đã được thắp lên,
như vậy có lạ lùng không ông?
Một lần nữa, Barker lại tỏ ra hơi lúng túng. Ông
ta im lặng một lát rồi mới trả lời:
- Thưa ông, tôi không thấy có gì lạ lùng. Ngọn nến
chiếu sáng lu mờ quá. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là
phải có một ánh sáng tốt hơn. Cái đèn lúc đó để
trên bàn, tôi đã thắp nó lên.
- Và ông đã tắt ngọn nến đi?
- Vâng.
Holmes không hỏi thêm, và Barker sau một cái nhìn
thách thức về phía mỗi người chúng tôi, đã rời căn
phòng đi ra.
McDonald viết một mảnh giấy nhỏ, báo cho bà
Douglas biết là ông sẽ lên gặp bà, nhưng bà đã trả
142lời rằng: Bà sẽ xuống.
Đó là một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi, cao lớn, rất
đẹp, dáng điệu chín chắn và hết sức tự chủ, khác
hẳn với hình ảnh một người bi thảm và rã rời mà tôi
hình dung ra trong đầu. Bà lần lượt nhìn chúng
tôi, với một biểu hiện dò hỏi. Rồi đôi mắt dò hỏi
đó nhường chỗ cho một câu hỏi đột ngột:
- Các ông đã tìm ra gì chưa?
Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều
hơn là niềm hi vọng.
- Thưa bà, chúng tôi đã làm những việc cần làm.
Xin bà cứ yên tâm - McDonald trả lời.
- Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc - Bà
Douglas nói, giọng thều thào.
- Không biết bà có đem lại cho chúng tôi một chút
143ít ánh sáng nào không?
- Thưa, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì mà các
ông cần.
- Ông Barker cho biết rằng, bà không bước chân vào
căn phòng xảy ra án mạng...
- Vâng. Ông ta đã bắt tôi phải đi lên và trở về
phòng riêng.
- Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đã tức khắc xuống
ngay?
- Tôi mặc áo khoác ngoài và chạy xuống.
- Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Barker ngăn
bà lại, mất khoảng bao lâu?
- Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật
khó tính được thời gian.
- Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc
144chồng bà đi xuống nhà, đến lúc bà nghe thấy tiếng
súng nổ không?
- Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên tôi
không nghe thấy tiếng anh ấy đi xuống.
- Bà đã quen biết ông ấy ở Anh có phải không?
- Thưa ông, đã năm năm rồi.
- Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện
gì đã xảy ra ở bên Mỹ và dự cảm về một mối nguy
hiểm nào không?
Bà Douglas suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời.
Mãi một lát sau bà mới nói:
- Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy
hiểm đang đe dọa chồng tôi. Anh không chịu bàn luận
gì với tôi về việc này cả, vì anh ấy muốn tránh
cho tôi mọi sự sợ hãi.
145- Vậy làm sao bà lại biết được?
Nét mặt bà Douglas hồng tươi hẳn lên trong một nụ
cười:- Tôi biết sự bí mật này là nhờ vào nhiều dấu
hiệu: Vì anh ấy không chịu nói gì với tôi về quãng
đời của anh khi còn ở bên Mỹ; vì thấy anh ấy có
những biện pháp tự vệ riêng; vì đôi lúc anh ấy
không kiềm chế được và nói lỡ vài lời; vì thấy cái
cách anh ấy nhìn những người lạ mặt bất chợt đến
đây. Tôi hoàn toàn chắc chắn là anh ấy có những kẻ
thù ghê gớm, mà anh ấy cho là có kẻ đang dò tìm
tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề
phòng.
- Ông ấy đã lỡ mồm nói ra điều gì làm bà phải chú
ý? – Holmes hỏi.
- “Thung lũng khủng khiếp”. Có một lần anh ấy dùng
146hình tượng này để nói với tôi. Khi tôi thấy anh
nghiêm nghị hơn bình thường, tôi có hỏi: “Có bao
giờ chúng ta ra khỏi được cái ‘Thung lũng khủng
khiếp’ ấy không?” Và anh ấy đã trả lời rằng: “Có lẽ
chúng ta không bao giờ ra khỏi được.”
- Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói
gì bằng hình tượng “Thung lũng khủng khiếp”?
- Vâng, tôi có hỏi. Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và
lắc đầu nói: “Cầu trời cho cái bóng ấy không bao
giờ phủ cả lên em nữa.” Đó là cái thung lũng thật
sự chứ không phải một hình tượng. Anh ấy đã sống ở
đó mà một sự việc khủng khiếp đã xảy ra có liên
quan đến anh ấy.
- Thế ông ấy có nêu tên một người nào không?
- Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn
147mê, anh ấy luôn luôn nhắc đến một tên người. Cái
tên ấy là McGinty Toán trưởng. Lúc anh ấy bình
phục, tôi có hỏi Toán trưởng McGinty là ai. Anh ấy
cười trả lời: “Nhờ trời, hắn chưa bao giờ làm
trưởng cái toán của anh.” Nhưng chắc có một mối
liên hệ nào đó giữa người Toán trưởng đó và Thung
lũng khủng khiếp.
Ông thanh tra McDonald nói:
- Bà đã gặp ông Douglas trong nhà trọ một gia đình
ở London và hai ông bà đã hứa hôn với nhau cũng ở
đó. Trong việc lập gia đình, có một yếu tố nào bí
mật hay cần phải giữ kín không? Hay một yếu tố lãng
mạn?
- Lãng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thì cũng có
yếu tố lãng mạn. Không có cái gì là bí mật cả.
148- Ông ấy có tình địch không?
- Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự do.
- Việc mất chiếc nhẫn cưới có gợi cho bà một ý
nghĩ gì không? Nếu kẻ thù cũ đã đến đây và ám hại
ông, thì có lí nào chúng tháo lấy chiếc nhẫn?
Trong một thoáng, tôi chợt thấy dường như là một
nụ cười rất kín đáo hiện lên trên môi bà Douglas.
Bà ta bình tĩnh trả lời:
- Tôi tuyệt đối không hiểu gì cả. Thật là kì lạ.
Ông thanh tra nói:
- Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa, và
rất tiếc đã quấy rầy bà. Tất nhiên còn một số điều
nữa phải xem xét thêm, nhưng chúng tôi sẽ xin kêu
gọi sự giúp đỡ của bà khi nào cần thiết.
Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa
149thấy đôi mắt sắc sảo nhìn chúng tôi một cách dò
hỏi. Rồi bà ta bước ra khỏi phòng ăn.
Khi hai cánh cửa phòng đã khép lại, ông thanh tra
McDonald khe khẽ nói một cách trầm ngâm:
- Một người đàn bà đẹp! Một người đàn bà rất đẹp!
Cái tay Barker là một người được phụ nữ yêu thích.
Ông ta công nhận rằng Douglas có tính hay ghen.
Biết đâu sự ghen tuông này không phải là vô căn cứ.
Rồi lại còn chuyện cái nhẫn cưới nữa. Chúng ta
không thể coi thường chi tiết ấy được. Một người mà
đã rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác
chết. Ông nghĩ thế nào, ông Holmes?
Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng
dậy, ra giật chuông, và khi người đầu bếp vào, anh
hỏi:- Anh Ames, ông Barker hiện giờ ở đâu?
150- Thưa ông, để tôi đi xem.
Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo, ông Barker
hiện đang ở ngoài vườn.
- Anh Ames, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi
anh vào gặp ông Barker thì ông ta đi gì ở chân?
- Ông ta đi giày vải. Tôi đã mang giày da đến cho
ông ta thay để đi báo cảnh sát.
- Thế đôi giày vải ấy bây giờ đâu rồi?
- Dưới gầm ghế phòng ngoài.
- Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của
ông Barker và của một người ở ngoài lọt vào lâu đài
là cực kì quan trọng. Anh đồng ý không?
- Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của
ông Barker đều đầy dấu máu. Nhưng cả những vết chân
của tôi cũng thế.
151- Đó là điều bình thường, nếu căn cứ vào tình
trạng căn buồng lúc đó. Chúng tôi lại sẽ gọi chuông
khi nào cần đến anh.
Vài phút sau, chúng tôi đã trở lại căn buồng có án
mạng. Holmes đã nhặt mang theo đôi giày vải để ở
buồng ngoài, đôi giày đỏ lòm máu.
Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú
xem xét, vừa xem vừa nói khẽ một mình:
- Kì lạ! Thật là kì lạ!
Anh nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày vải lên
vết máu trên khung thành cửa sổ: Khớp đúng như in.
Anh mỉm cười, nhìn mọi người.
Ông thanh tra bối rối đến cực độ, hét lên như
người điên:
- Chính tay Barker này đã in cái dấu giày trên
152thành cửa sổ. Nó rộng hơn một dấu chân bình thường.
Tôi nhớ rằng ông đã có nói đây là một bàn chân
phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông
Holmes, thế hắn định chơi cái trò gì đây?
Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm: - Vâng,
vâng. Trò gì nào?
Mason tủm tỉm cười, xoa mãi hai bàn tay vào nhau
với một niềm vui thích hoàn toàn có tính cách nghề
nghiệp:- Tôi đã báo trước cho các ngài biết mà.
Gay go hóc búa lắm chứ có phải chơi đâu.
6. TIA SÁNG TRONG ĐÊM ĐEN
Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số
chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông
lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng thùy dương
uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là
153một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở
đây làm cho thần kinh tôi thư giãn hẳn.
Đi về phía xa nhất của tòa lâu đài, những lùm cây
mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất
kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế đá kê
khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể
nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng
nói của đàn ông, và một tiếng nhỏ của phụ nữ. Một
lát sau, khi đã đi vòng quanh hàng rào, tôi trông
thấy bà Douglas đang ngồi với ông Barker. Vẻ mặt
của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy bà tỏ ra
nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ bà ta
yêu đời bấy nhiêu, khuôn mặt vẫn còn rung lên trong
sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Barker.
Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan
154vào nhau, một nụ cười tươi tắn làm rạng rỡ bộ mặt
rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt
trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi
Barker đứng dậy và tiến về phía tôi:
- Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói
chuyện với bác sĩ Watson không?
Tôi chào lại một cách lạnh nhạt.
- Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà
ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà
Douglas mong muốn được thưa với ông một đôi điều.
Tôi cau mày và đi theo ông ta. Hình ảnh của người
chết lại hiện ra trong trí tôi. Chỉ vài giờ sau tấn
thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa
vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Douglas một cách dè
dặt.
155- Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà
không tốt.
- Đó không phải là việc của tôi - Tôi nhún vai,
nói.
- Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được
rằng...
- Cũng không cần thiết là bác sĩ Watson phải hiểu.
Đúng như ông ấy nói, đây không phải là việc của
ông - Ông Barker nói.
- Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi
dạo.
- Xin hãy khoan, bác sĩ Watson! - Bà Douglas kêu
lên - Ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ
của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có
một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì
156ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại các thám tử của
chính quyền không?
- Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta,
hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Barker cũng
nhấn mạnh thêm.
- Tôi không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về
vấn đề này không.
- Tôi van ông. Nếu ông mách bảo cho chúng tôi điều
này, thì ông sẽ giúp đỡ cho tôi nhiều lắm.
Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe
thành thật quá đến nỗi lúc đó tôi quên hết chuyện
vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui
lòng:- Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông
ấy tự chủ đối với những việc của mình và hoạt động
theo suy nghĩ riêng của ông ấy. Mặt khác, ông ấy
157cũng phải tỏ ra trung thực với những thám tử của
nhà nước từng làm việc trong một vụ án, và ông ấy
sẽ không giấu giếm họ bất cứ một điều gì có thể
giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lí. Như vậy
bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes.
Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc
họ ngồi đằng sau lùm cây.
Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ
vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi.
Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi,
Holmes trả lời:
- Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự
của họ.
Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt
buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới trở về.
158Anh còn nhắc lại lần nữa :
- Này Watson, không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những
tâm sự này sẽ trở nên rất khó xử nếu sau này có sự
bắt bớ về tội đồng lõa.
- Sắp tiến đến bước đó rồi à?
- Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư
này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện nay.
Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán.
Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ
còn thiếu kia thì...
- Quả tạ à?
- Tất cả vụ án này quay xung quanh cái quả tạ vắng
mặt kia. Một quả tạ. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy
tưởng tượng, nếu có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với
một quả tạ thôi, thì anh ta sẽ trẹo cột sống.
159Anh nhai nhồm nhoàm một cái bánh ngọt, hai mắt
long lanh tinh nghịch. Trông anh ăn ngon như thế
cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi. Ăn
xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán
trọ, bắt đầu nói:
- Nói dối! Một sự dối trá hoàn toàn. Tất cả câu
chuyện của Barker là nói dối. Nhưng câu chuyện của
Barker lại được bà Douglas công nhận. Vậy thì bà
Douglas cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta
đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối, và
cái sự thật mà họ đã cố gắng che giấu là cái gì?
Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng
thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ
nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo lại chiếc
nhẫn thứ nhất vào ngón tay nạn nhân. Chắc chắn là
160không bao giờ hắn làm như vậy đâu. Sau đó hắn lại
còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa.
Không thể làm kịp! Anh có nói rằng: Chiếc nhẫn cưới
đã được rút ra khỏi tay Douglas trước khi ông ta
chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy, chứng tỏ
cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi. Hơn nữa một
người can đảm, liều lĩnh như Douglas liệu có tháo
ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân
khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân
đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa
sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là
nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn
này phải được bắn sớm hơn là người ta khai báo với
chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính là do
Barker cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát.
161Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến 10
giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước
giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 phút thì họ đi ngủ,
chỉ trừ có Ames lúc đó đang ở trong bếp.
Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành
một vài thí nghiệm: Khi tôi đóng kín các cửa lại,
McDonald gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có
án mạng; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng
đứng ở căn buồng riêng của bà hầu phòng thì lại
khác: ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe loáng
thoáng tiếng người thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của
một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái
im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà Allen
cũng có thể nghe thấy. Bà ấy có nói là hơi nặng
tai, nhưng mặc dầu vậy, bà ấy lại khai là có nghe
162thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có
báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào
lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn cái tiếng mà bà ta cho
là tiếng cánh cửa đập ấy, chính là tiếng súng và
thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ
án. Vậy ông Barker như thế nào trong khoảng thời
gian từ 11 giờ kém 15 (là lúc họ nghe thấy tiếng
súng và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc
họ giật chuông để báo động với gia nhân)? Tại sao
họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu
này, thì đã tiến được một bước lớn.
- Tôi tin chắc là có sự đồng lõa giữa hai con
người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế
nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới
chết có vài tiếng đồng hồ.
163- Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng
mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế
đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo
diễn có phần “yếu” quá, vì bất luận một nhà điều
tra nào dù ngu muội đến đâu cũng phải chú ý đến
việc, ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ
nữ.
- Vậy thì Barker và bà Douglas là những thủ phạm
của vụ án này phải không?
Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi
và thở dài:
- Nếu anh muốn nói rằng, bà Douglas và Barker biết
sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi
đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi
thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau
164và đã quyết định phải ra tay? Không! Những người
trong làng đã nói là tuyệt đối không thể. Tất cả
mọi cái đều chứng minh rằng, gia đình Douglas rất
thuận hòa êm ấm.
Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi
đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại:
- Về vấn đề này thì anh đã sai rồi.
- Ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ
thuận hòa với nhau. Như thế phải giả thiết rằng,
cái đôi thủ phạm kia gian giảo đến mức vừa giết
chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu
người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm
nào đó...
- Ồ, giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một
mình họ gợi ra mà thôi.
165Holmes có vẻ suy nghĩ.
- Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe dọa
Douglas, chẳng có “Thung lũng khủng khiếp”. Họ bịa
ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ
lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong
bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ
mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý
nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ ra có thể
chuẩn bị ngay ở trong lâu đài. Từ cả những cái ấy
đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái là lại
có những góc cạnh khác cứ lòi ra. Tại sao có súng
cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin
chắc là không ai nghe tiếng súng? Anh có thể giải
thích được cho tôi nghe không, Watson?
- Xin chịu.
166- Nếu một người đàn bà cùng tình nhân âm mưu giết
chồng, thì liệu họ có dại dột đến mức tháo chiếc
nhẫn cưới ở tay người chết ra để “lạy ông tôi ở bụi
này” không? Điều này liệu có thể xảy ra được
không?
- Không?
- Lại còn thế này nữa: Nếu chính họ là những người
giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng
đủ tinh khôn để nghĩ rằng, bất cứ một viên thám tử
nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe
đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến đầu
tiên để tẩu thoát.
- Chịu thôi.
- Vậy chúng ta hãy giả thiết, tay Douglas này có
một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa
167đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù.
Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn
cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng, mối
thù này có từ thời Douglas lấy người vợ trước kia,
thì mới giải thích được việc tháo chiếc nhẫn cưới.
Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Barker và bà
Douglas ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng
nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Douglas sẽ bị
đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để hắn
chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho
hắn chạy đi rồi lại kéo lên. Tên sát nhân biết rằng
đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp nên đã để lại
chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra
trước khi hắn đã đi xa. Đến đây thì chúng ta vẫn
còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng
168không?
Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm:
- Tất nhiên là có thể được.
- Tiếp tục nhé! Sau khi đã để cho tên sát nhân
trốn thoát, hai người kia biết mình bị lâm nguy,
bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết
Douglas hay không phải là đồng lõa của tên sát
nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Barker lấy
chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để
gợi ý là tên sát nhân đã trốn theo con đường đó.
Chắc chắn là họ để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy
ra, rồi mới báo động.
Làm cách nào để chứng minh được những điều đó?
- Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết
quả.
169- Ở một mình suốt đêm trong căn phòng xảy ra án
mạng?
- Tôi đã thu xếp với anh bạn Ames rồi. Tôi sẽ tới
ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi
cho tôi nhiều ý nghĩ hay. À, mà này, anh có mang
theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ?
- Có, kia kìa.
- Thế thì xin cho tôi mượn.
- Được thôi. Nhưng... nó có phải là một vũ khí
đâu.
- Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn
chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells
về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe
đạp đó.
Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra McDonald và
170Mason trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên
một bước khá dài.
- Chúng tôi đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có
được nhận dạng của người chủ nó - McDonald nói.
- Tôi xin hết lòng ca ngợi hai vị! - Holmes nói.
- Cậu Ames khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng,
ông Douglas từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu
kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi ở đó, ông được
biết có một nguy hiểm đang đe dọa mình. Như thế,
nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất
phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp
đến đó cho các khách sạn xem. Chủ khách sạn Eagle
Commercial nhận ngay ra đó là chiếc xe của một
người Mỹ tên là Hargrave đến thuê phòng ở đó đã hai
ngày rồi. Tất cả hành lí chỉ có chiếc xe đạp với
171một cái va-li nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng kí là
từ London đến, nhưng không nói rõ địa chỉ.
Holmes kêu lên sung sướng:
- Hô hô. Hai ông đã làm được một công việc hết sức
tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây
mà xây dựng hết giả thiết nọ đến giả thiết kia.
Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông
McDonald ạ!
Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói:
- Vâng, ông nói đúng đó. Tôi nói với Holmes:
- Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết
của anh kia mà?
- Khớp mà không khớp. Ông McDonald, ông có tìm
thấy cái gì để xác minh được người ấy không?
- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, dấu vết
172gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản
đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm
xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là
biến luôn. Không ai thấy hắn nữa.
Mason ngắt ngang:
- Đó! Chính chỗ này làm tôi thắc mắc đây ông
Holmes ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không
chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở
đây như một người du lịch bình thường. Hắn thừa
biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát
về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ
nghĩ đến sự liên quan của hắn với vụ án mạng.
- Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ hắn vẫn
chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được đặc điểm nhận
dạng của hắn không?
173McDonald mở cuốn sổ tay ra:
- Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng
tôi đây. Hắn cao khoảng gần sáu feet, khoảng năm
mươi tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi
diều hâu. Về bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là
dữ dằn và đáng ngại.
- Trời đất! Trừ điểm cuối cùng ra, thì phải nói là
giống hệt một bức chân dung của chính Douglas. Tay
này cũng khoảng hơn năm mươi tuổi một tí, tóc cũng
hoa râm, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các
ông có chi tiết nào khác nữa không?
- Hắn mặc bộ quần áo màu xám rộng thùng thình, một
cái áo khoác màu vàng, ngắn, và đội một cái mũ
mềm.
- Còn về khẩu súng?
174- Một khẩu súng dài khoảng hai feet có thể xếp
được hoàn toàn trong chiếc va-li, và giấu dưới áo
khoác.
- Thế bây giờ các ông định liên kết những tin tức
mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào?
Mac McDonald trả lời:
- Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ,
tên là Hargrave, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells
với một chiếc xe đạp và một cái va-li. Trong va-li
có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi
xe đạp tới làng Birlstone và đã giấu khẩu súng
dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai
trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần
đi qua làng vẫn có thể đến được cổng sắt của lâu
đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người đi xe đạp
175như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe
đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng
nấp ở đó để rình ông Douglas ở lâu đài ra. Ở trong
nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi, nhưng ở
ngoài trời thì có hai ưu điểm rõ ràng: Trước hết,
nó giết được người một cách chắc chắn, sau nữa sẽ
không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông
thôn có nhiều người đi săn.
- Rất rõ ràng! - Holmes nói.
- Nhưng ông Douglas lại không ra khỏi lâu đài. Vậy
thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn
bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào
gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống
và xung quanh thì vắng vẻ. Hắn liều đi vào và chắc
là có chuẩn bị trước một lí do gì đó để xin lỗi nếu
176có gặp người trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn
lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa.
Ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn
hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn. Hắn đợi đến
11 giờ 15. Đến giờ này ông Douglas bước vào buồng.
Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc
xe đạp của hắn có thể bị những người trong khách
sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng
một phương tiện giao thông khác để trở về London.
- Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin án mạng đã xảy ra
sớm hơn nửa giờ so với thời điểm người ta đã nói
với chúng ta. Rằng bà Douglas và ông Barker đã cùng
nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên
sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm
cho người ta tưởng là hắn đã trốn qua đường cửa
177sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút
xuống cho hắn trốn.
Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. Ông thanh tra
McDonald nói:
- Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ
chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi.
Mason bổ sung:
- Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một
bí mật gay go hơn nữa. Bà Douglas chưa hề sang Mỹ.
Vậy thì bà ta có thể liên hệ như thế nào với một
tên sát nhân người Mỹ?
- Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự
tính tối nay sẽ tiến hành một cuộc điều tra theo
cách riêng của tôi.
- Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông
178Holmes?
- Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sĩ
Watson thôi, ông Ames sẽ giúp tôi một vài điều.
*
* *
Khi Holmes trở về phòng trọ thì đêm đã khuya lắm
rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ:
- Thế nào Holmes, có thấy gì không?
Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào
tai tôi:
- Anh có sợ khi phải ngủ chung phòng với một thằng
điên không?
- Không.
- Ồ, thế thì hạnh phúc cho anh đó.
Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh chui
179vào chăn.
7. GIẢI ĐÁP
Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra
McDonald và thám tử Mason. Họ đang họp trong cơ
quan cảnh sát địa phương. Phía trước mặt họ, trên
bàn có cả xấp những thư và điện tín đã được xếp thứ
tự cẩn thận.
Holmes vui vẻ nói:
- Vẫn trên đường đi tìm vận động viên đua xe đạp
chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào?
McDonald buồn rầu chỉ tập thư tín, nói:
- Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu
vàng ở khắp nơi.
Holmes kêu lên với một giọng chân thành:
- Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời.
180Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ: “Bỏ vụ
án”.
McDonald và Mason vô cùng kinh ngạc. Mãi rồi ông
thanh tra mới kêu lên được:
- Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à?
- Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi
đến đích. Nhưng chúng ta không được phép tuyệt vọng
trong khi đi tìm chân lí.
- Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Hắn có phải là
một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định hắn phải ở
một nơi nào chứ?
- Vâng, hắn phải ở một nơi nào đó, và chúng ta sẽ
tìm thấy hắn trong một phạm vi hẹp hơn nhiều.
Ông thanh tra phản đối với một giọng bực tức rõ
ràng:- Ông giấu chúng tôi điều gì vậy, ông Holmes?
181
- Ông McDonald! Tôi chỉ giấu ông trong một thời
gian ngắn thôi - những gì tôi chưa thể cho ông biết
được. Tôi muốn thẩm tra lại một số chi tiết. Việc
thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về London sau khi
đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu
lượm được.
- Chiều hôm qua ông đồng ý đối với những nét chính
của những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì
hình như có chuyện gì đó đã xảy ra làm ông thay
đổi hoàn toàn.
- Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài mấy tiếng
đồng hồ.
- Thế thì sao?
- Tôi có đọc một tài liệu ngắn về tòa lâu đài. Tôi
182mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng.
Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ có vẽ
một bức hình thô sơ của tòa lâu đài cũ.
- Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều
điều hấp dẫn cho cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc
ông nghe một đoạn sau này:
“Được dựng lên trong năm thứ năm của triều đại vua
James I trên vị trí của một lâu đài cũ cổ xưa hơn,
lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất
đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào
thời các vua Jacobean...”
- Ông định chế nhạo chúng tôi ư, ông Holmes?
- Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy.
Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này nói
đến việc một ông đại tá của Quốc hội đã chiếm lấy
183tòa lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles
có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kì Nội
chiến; và nhà vua George II cũng đã có ở đây... thì
chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có
thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghĩ liên hệ lắm.
Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay:
- Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích,
nhưng ông quá kín đáo.
- Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp
ông Barker, cũng không gặp bà Douglas, nhưng tôi
được biết rằng, bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một
cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Ames thôi,
anh ta đã đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn
buồng xảy ra án mạng và Ames cam đoan sẽ giữ kín về
việc này.
184- Thế nào? Ở lại cạnh cái...
- Không! Mọi vật đã được dọn dẹp cả rồi. Vì vậy
tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó.
- Có ích thế nào, thưa ông?
- Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó.
- Ở đâu vậy?
- Xin để tôi tiếp tục tìm kiếm. Ông thanh tra càu
nhàu:
- Ông muốn thế nào, chúng tôi cũng phải theo thế
thôi. Nhưng bắt buộc bỏ vụ án này đi thì... Mà, tại
sao lại phải bỏ?
- Bởi mục đích cuộc điều tra về vụ ám sát ông
Douglas. Các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe
đạp nữa. Chuyện đó không đi đến đâu cả.
185- Chúng tôi phải làm gì?
- Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn.
- Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông.
- Thế còn ông, ông Mason?
Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác,
phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ
đối với ông ta.
- Vâng, ông thanh tra đã đồng ý, thì tôi cũng đồng
ý.
- Hoan hô! Vậy cả hai ông hãy tổ chức một cuộc dạo
chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi
là đứng từ trên cao nhìn xuống, sẽ thấy phong cảnh
của cánh rừng Weald tuyệt đẹp.
McDonald nổi cáu, đứng phắt lên:
- Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông
186đùa rồi đó! Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta:
- Thôi được! Thế thì xin tùy các ông, nhưng nhất
định phải đến tìm tôi ở đây, trước buổi tối nay.
- Thật là quá lắm!
- Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy
chữ cho ông Barker.
- Viết gì kia?
- Xin mời ông viết: “Thưa ông, chúng tôi nghĩ
rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đường
hào để hi vọng có thể tìm thấy...”
Ông thanh tra phản đối ngay:
- Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì để tát cạn
đường hào hay không, nhưng thấy không thể được.
- Xin ông cứ viết.
- Thôi được, ông đọc tiếp đi.
187- “... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều
tra. Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công
nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước...”
- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể được mà!
- “... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước.”
Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông hãy cho người đưa
thư tận tay ông Barker. Đó cũng là giờ chúng ta sẽ
gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải
trí thế nào thì xin tùy thích, vì cuộc điều tra
đang giậm chân tại chỗ.
Buổi chiều tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã dự
định, vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò
mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt.
Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng:
- Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới được chỗ
188đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên
đi ngay bây giờ.
Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu
đài và đến trước một lỗ hổng trên hàng rào. Chúng
tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng
sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và
cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm
sau bụi cây. Chúng tôi cũng làm theo anh ta.
McDonald hỏi bằng một giọng bực tức:
- Làm gì bây giờ đây?
- Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động.
- Ông nên thành thật với chúng tôi hơn. Holmes bật
cười:
- Ông McDonald, tôi xin ông kiên nhẫn một chút,
rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi.
189Đêm xuống dìm cả tòa lâu đài vào bóng tối. Một màn
sương lạnh từ đường hào bay lên làm chúng tôi rét
thấu xương. Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn
nến được thắp, và trong căn buồng có án mạng cũng
có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả xung
quanh tối đen như mực. Đột nhiên ông thanh tra lại
cất tiếng hỏi:
- Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì?
- Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên
tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến
tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc
chúng ta chờ... À mà kia, việc chúng ta chờ kia
kìa!
Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng
đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại
190trước nó. Sau đó, cửa sổ mở toang và bóng một người
đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược
nhìn xuôi trong mấy phút rồi cúi xuống, và trong
đêm khuya yên lặng, chúng tôi nghe thấy tiếng nước
vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm
một vật gì cầm trong tay xuống đường hào. Sau cùng
anh ta kéo vật gì lên: Một vật gì đó to, tròn, khi
được đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn
đèn.
Holmes kêu lên:
- Nào, bây giờ. Ta vào đi!
Chúng tôi chồm lên, líu tíu chạy theo Holmes.
Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm
ĩ. Ở phía bên kia cửa, các chốt được tháo ra. Ames
hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác. Holmes
191chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng
ba chúng tôi xông vào căn buồng.
Ngọn đèn dầu hỏa để trên bàn là nguồn ánh sáng mà
chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang
ở trong tay của Barker, và ông ta đang hướng về
phía chúng tôi. Nó chiếu lên khuôn mặt cả quyết
cương nghị và cặp mắt đe dọa thách thức.
- Thế này là thế nào? Các ông tìm gì?
Holmes nhìn xung quanh, rồi nhảy bổ tới một cái
gói ướt sũng có buộc dây để trên bàn.
- Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ
mà ông vừa kéo dưới đáy hào lên.
Barker kinh ngạc:
- Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy?
- Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó.
192- Ông đã để quả tạ vào đó? Holmes chữa lại:
- Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một
quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì
gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng,
thì có lẽ có một vật gì đó đã được nhấn chìm xuống
nước. Với sự giúp sức của Ames, tôi đã vào được căn
phòng này, và với cái ô của bác sĩ Watson, tôi đã
vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản là
phải chứng minh được rằng ai đã dìm cái gói đó.
Bức thư của ông McDonald báo trước ngày mai sẽ tát
hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải
chờ đêm tới, lôi nó lên. Vậy ông Barker, đã đến
lúc ông phải giải thích.
Holmes đặt cái gói còn ướt sũng lên bàn, và tháo
dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là
193một đôi giày da mũi vuông.
- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy! - Holmes
nói.Sau đó anh để lên bàn một con dao dài còn nằm
trong bao. Rồi anh giở ra một mớ quần áo, gồm một
bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần áo bằng
vải tuýt xám, và một áo khoác màu vàng.
- Quần áo thì thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là
đáng chú ý - Holmes nói.
Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những
ngón tay dài lần theo các đường khâu.
- Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần
lót để có thể giấu được một khẩu súng cưa nòng. Tên
hiệu của người thợ may dính trên cổ áo đây: “Neal,
thợ may, Vermissa, USA”. Tôi đã ở cả chiều hôm nay
trong căn phòng đọc sách của ông hiệu trưởng
194trường, và đọc thêm được một điều mới nữa:
“Vermissa” là tên của một thành phố nhỏ, trong
thung lũng nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại
Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Barker, chính
ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ
và người vợ trước của ông Douglas. Cho nên tôi suy
luận từ đó ra rằng, mấy chữ “V.V.” trên miếng bìa
cứng tìm thấy bên cạnh người chết là chữ viết tắt
của
“Vermissa Valley” (Thung lũng Vermisa), và chính
cái thung lũng này đã cử một người mang cái chết
đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ rõ ràng. Và
bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Barker.
Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Barker
lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn
195rầu, lúng túng. Cuối cùng, ông ta lẩn trốn trong
một thái độ mỉa mai và cười gằn:
- Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm
cho chúng tôi nghe.
- Tôi có thể nói thêm được nữa, nhưng sẽ lịch sự
hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi.
- Ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật gì,
thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi
không thể nói ra bí mật của người khác.
Ông thanh tra bình tĩnh:
- Nếu ông nghĩ như vậy, thì bắt buộc chúng tôi
phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận được
trát bắt ông.
Barker trả lời bằng một giọng đầy thách thức: -
Ông cứ làm.
196Sự đối chất hình như đã kết thúc. Bộ mặt rắn như
đá hoa cương của Barker cho thấy rằng, không có một
sự đe dọa nào có thể bắt được ông ta nói. Nhưng bà
Douglas đã bước vào phòng.
- Anh Barker, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi.
Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất
trang nghiêm:
- Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bà
nên tự giác báo cáo với cảnh sát. Chính tôi cũng có
lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi
bà nói với bác sĩ Watson đây. Lúc đó tôi tin rằng,
bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây
giờ tôi biết là không phải thế.
Bà Douglas thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc khi
nghe những lời nói cuối cùng của Holmes.
197Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cũng đã kêu
lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người tựa
như từ trong bức tường hiện ra, đang bước dần ra
khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Douglas
nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Barker cũng nắm chặt
một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Douglas
nhắc đi nhắc lại:
- Anh yêu quý, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ! Holmes
gật đầu tán thành:
- Vâng, đúng đấy, thưa ông Douglas.
Ông Douglas chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu
cứng đã hoa râm, một cái cằm vuông nhô ra, và một
cái miệng nhạy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi,
rồi bỗng tiến về phía tôi và đưa cho tôi một tập
giấy, làm tôi hết sức ngạc nhiên.
198Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu:
- Tôi biết ông, bác sĩ Watson, chưa bao giờ ông có
một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự
giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ
có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại
toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về “Thung lũng
khủng khiếp”.
Holmes xen vào:
- Ông Douglas, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây
giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại
kia.- Ông sẽ được nghe ngay bây giờ. Tôi có thể
vừa hút thuốc, vừa đọc được không? Xin cám ơn ông
Holmes.Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những
hơi thuốc dài.
- Tôi có được nghe nhiều về ông, ông Holmes. Tôi
199không nghĩ rằng có ngày tôi lại được làm quen với
ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái
này... - Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đưa cho tôi -
Thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho
ông một điều gì mới lạ.
Ông thanh tra McDonald vẫn không rời mắt nhìn
Douglas, mãi rồi mới nói lên được:
- Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi!
Hai ngày nay chúng tôi điều tra về cái chết của
ông, vậy mà bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ
chui lên vậy.
Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:
- Trong tài liệu mà tôi đã đưa cho ông, có mô tả
cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này.
Một chỗ trú ẩn dùng trong thế kỉ thứ XVII, rất có
200thể còn dùng được cho đến ngày nay.
Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại:
- Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu
rồi, ông Holmes?
- Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối
nay mới có thể chứng minh được điều này, nên tôi
có mời quý ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy
gói quần áo trong đường hào, tôi biết rằng xác chết
kia không phải là xác của ông Douglas mà là người
đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Douglas
ẩn nấp, ông ấy đã ẩn nấp được với sự yểm trợ của vợ
và bạn ông ta.
- Ông lí luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ
được những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông
thanh tra, tôi sẽ nói hết: Có một vài người có
201nhiều lí do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi.
Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an
ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California,
rồi còn bắt buộc tôi phải rời khỏi châu Mỹ. Khi
tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những
năm cuối cùng của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao
giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện, vì nếu
biết, nhà tôi cũng sẽ luôn luôn sống trong lo sợ...
Douglas nắm chặt lấy tay vợ:
- ... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự
việc, tôi có đi Tunbridge Wells, và có gặp một
người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi
cũng biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi
trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ.
202Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài
vườn. Khi cây cầu đã được kéo lên, tôi mới yên tâm
hơn, tôi không ngờ rằng hắn đã lẻn vào trong tòa
lâu đài và chờ tôi ở đây. Khi đi kiểm tra, vừa đặt
chân vào căn buồng này thì tôi đã cảm thấy ngay có
sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giày thò ra dưới bức
rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy cả
con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây
nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cũng
chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và
nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc
đó, hắn nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một
lưỡi dao nhọn, và tôi đã đập hắn bằng một nhát búa
quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Hắn đã lanh lẹ
vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu
203dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy hắn lên đạn,
nhưng tôi đã nắm được khẩu súng. Tôi nắm được nòng
súng. Tôi với hắn vật lộn trong khoảng một hai phút
gì đó. Hắn không rời khẩu súng, nhưng đã để báng
súng chúc xuống đất. Không biết là tôi đã bóp cò,
hay chính hắn đụng phải cò. Chỉ biết rằng hắn đã
nhận đủ cả hai viên đạn vào mặt.
Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Barker
chạy vào. Tôi cũng nghe thấy tiếng chân nhà tôi
chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại. Tôi hứa với nhà
tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với
anh Barker, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu
hết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong
lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc
đó chúng tôi mới biết rằng không ai nghe thấy tiếng
204súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì vừa mới
xảy ra thôi.
Chính vào lúc này tôi chợt có một ý kiến. Tôi vén
cánh tay áo của hắn lên, và chúng tôi thấy ngay cái
dấu hiệu của hội kín ở trên đó. Đây, các ông
xem...Douglas cũng vén tay áo ngoài và tay áo
sơ-mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam
giác màu nâu nằm trong một đường tròn, giống như
cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết.
- Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu
xếp đặt kế hoạch. Hắn cũng cỡ người như tôi, cũng
tóc hoa râm và dáng dấp cũng gần giống tôi. Còn về
bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt rõ được nữa. Tôi
trở về phòng để lấy một bộ quần áo, và mười lăm
phút sau thì Barker và tôi đã mặc vào cho hắn một
205cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt hắn nằm như các
ông đã thấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của hắn vào
trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ -
vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau
đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà hắn
định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác
hắn. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón tay hắn,
nhưng đến cái nhẫn cưới thì...
Douglas chìa ra một bàn tay to lớn.
- Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo
nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giũa thì
mới lấy nó ra được. Tôi phải bóc cả miếng băng dính
dưới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên phần
còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là
người tinh khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý, vì
206nếu ông giở miếng băng dính ấy lên, thì ông sẽ thấy
ở dưới không có một dấu đứt nào cả.
Tôi định ẩn náu ít lâu, rồi đi đến một nơi nào đó,
nhà tôi sẽ đến sau, như thế may ra tôi còn có thể
sống yên ổn được trong những ngày cuối cùng của đời
mình.
Bây giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: Đối với
luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?
Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới
lên tiếng:
- Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp
đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông.
Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó lại biết ông ở
đây, và hắn làm cách nào mà lọt được vào căn buồng
207này?
- Tôi hoàn toàn không biết.
Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì
thầm:- Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc
đâu. Ông sẽ còn phải đương đầu với những mối nguy
hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên
Mỹ nữa kia. Xin ông hãy theo lời khuyên của tôi:
Hãy hết sức cảnh giác.
Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi
rời lâu đài Birlstone, lùi về quá khứ hai mươi năm,
vượt qua vài ngàn cây số về phía Tây, để nghe một
câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng
ta sẽ trở lại gian buồng ở đường Baker, là nơi sẽ
viết chương cuối cùng của câu chuyện này.
II. NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG
2081. CON NGƯỜI ẤY
Ngày 4 tháng 3 năm 1875, tuyết phủ đầy các đường
đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã
dọn sạch được con đường tàu hỏa nối liền các trung
tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên
con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn
Vermissa ở ngay đầu thung lũng Vermissa. Từ đó,
đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Barton và
vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe
goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến
đây cả một số lớn những người nhiều ý chí.
Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc,
trắng xóa tuyết nhô lên từ những cánh rừng tối tăm,
rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo
và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu
209đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò.
Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên
toa hành khách thứ nhất có khoảng độ hai mươi hay
ba mươi người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi
làm việc ở dưới thung lũng về. Ít nhất cũng có đến
mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo
những cây đèn bảo hộ. Họ hút thuốc và nói chuyện rì
rầm, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh
sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa. Có cả một số
nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa
phương. Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ
tuổi đang ngồi một mình.
Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc
người trung bình. Đôi mắt màu xám mở to vừa khôn
ngoan, vừa tinh nghịch, lóng lánh sau cặp kính. Rõ
210ràng đây là một con người cởi mở và giản dị, nụ
cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như
vậy. Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái
quai hàm rắn chắc và xung quanh đôi môi có những
vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ
tuổi xứ Ireland này cũng không phải tay vừa.
Sau một, hai lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ
gần nhất và chỉ nhận được vài tiếng càu nhàu trả
lời, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa
kính, ngắm phong cảnh chẳng có gì hấp dẫn. Đêm
xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập lòe
trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xỉ
quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo
đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên
đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có
211những toán thợ thuyền bước xuống. Người hành khách
trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa
chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ
trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài
đoạn rồi lại hí hoáy ghi vài chữ lên đó. Có một
lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một
khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh
sáng đèn, thì thấy rõ là súng đã lên đạn. Anh ta
lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ
nói:
- Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy!
Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng:
- Đúng, ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cần đến
nó.
- Thế anh ở đâu đến?
212- Ở Chicago.
- Anh chưa đến đây bao giờ?
- Chưa.
- Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó.
- Thật không?
- Anh chưa nghe gì ở đây à?
- Chưa.
- Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đã lan ra khắp xứ
rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết.
Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này?
- Tôi tìm việc làm.
- Anh có vào nghiệp đoàn không?
- Có chứ.
- Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè
không?
213- Chưa, nhưng sẽ có.
- Nhờ đâu?
- Tôi là hội viên của “Hội những Người Tự Do”,
trong mỗi tỉnh đều có một chi hội.
Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng
ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực.
Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện.
Hai người cảnh sát thì ngủ gà ngủ gật. Người thợ
liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống
bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói:
- Vậy hãy bắt tay tôi đi.
Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu
riêng nào đó.
- Được rồi. Anh đã nói thật. Nhưng tôi muốn chắc
chắn hơn kia...
214Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải. Anh
trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang tầm mắt
trái. Người thợ nói:
- Những đêm đen tối rất khó chịu.
Anh kia trả lời:
- Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại.
- Thôi đủ rồi. Tôi là Scanlan, chi nhánh 341,
thung lũng Vermissa. Rất vui mừng được gặp anh
trong vùng này.
- Cám ơn. Tôi là McMurdo, chi nhánh 29, Chicago.
Toán trưởng: J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một
môn huynh như anh.
- Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như trong
thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại
215sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm
được việc làm ở Chicago?
- Ở đó tôi có thể làm được bất cứ công việc nào mà
tôi muốn - McMurdo trả lời.
- Thế thì tại sao anh lại bỏ đi?
McMurdo mỉm cười chỉ người cảnh sát:
- Hai ông cố nội này mà biết được lí do thì hẳn là
vui lắm.
- Chuyện lôi thôi à? - Scanlan thì thào.
- Nặng.
- Tù được không?
- Chưa đủ.
- Không phải là án mạng chứ?
McMurdo trả lời như một người vừa chợt nhận thấy
rằng mình đã nói quá nhiều:
216- Tôi có những lí do để ra đi. Anh nghe đến thế là
đủ rồi nhé.
- Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng
anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh
đâu. Thế bây giờ anh định đi đâu?
McMurdo rút ra một chiếc bì thư, đưa đến gần ngọn
đèn:- Địa chỉ đây: Jacob Shafter, Đường Sheridan.
Đây là một nhà trọ. Có người ở Chicago mách cho
tôi.
- Tôi không biết cái nhà trọ này. Vermissa không
nằm trong khu của tôi. Tôi ở Hobson’s Patch, ga sau
là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện gì lôi
thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà Hội quán
và vào tìm ông chủ McGinty. Ông ta là Toán trưởng
của chi nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại
217nhau ở chi Hội.
McMurdo ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay
cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh
tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm
cúi xuống co kéo, quay đi quay lại với những động
tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm
gừ của sắt thép.
Một tiếng nói bỗng cất lên:
- Địa ngục có lẽ cũng giống như thế này thôi!
McMurdo quay lại: Một người cảnh sát đã đến ngồi
bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng
khiếp đó. Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại.
- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ
tợn hơn một số kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên.
Anh mới đến vùng này phải không?
218- Phải! - McMurdo trả lời.
- Tôi khuyên anh hãy cẩn thận trong việc chọn bạn.
Không nên kết bạn với Scanlan hay cái băng của
hắn.
- Đó là chuyện riêng của tôi, các anh dự vào làm
gì? - McMurdo cười.
Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí
của mình bị đáp lại một cách thô bạo. Một người
nói:- Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh
thôi. McMurdo vẫn cứ tái đi vì tức giận, hét lên:
- Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết
rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn.
- Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn,
anh có vẻ “chịu chơi” lắm.
219Người cảnh sát kia bồi thêm:
- Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu
đâu.
- Đừng hòng dọa dẫm tôi, tôi không sợ các anh đâu!
- McMurdo quát lên – Tôi là Jack McMurdo, biết
chưa! Nếu các anh muốn tìm tôi thì cứ việc đến quán
trọ Jacob Shafter ở đường Sheridan, tôi sẽ không
thèm trốn tránh các anh đâu, rõ chưa hả? Đừng có
hòng làm điều gì vớ vẩn nghe chưa!
Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện
với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ đi vào một cái ga
tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là
thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. McMurdo
cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối
của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm tay anh:
220- Được lắm, anh bạn! Anh biết cách đối đáp bọn cớm
ra trò đấy! - Anh ta nói với giọng kinh ngạc - Đưa
cái bọc đây tôi mang cho, và để tôi chỉ đường cho
anh.Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ
mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi
đặt chân xuống Vermissa, McMurdo đã trở thành một
nhân vật nổi tiếng ở đó rồi.
Đứng dưới thung lũng nhìn thấy mấy đống lửa ngất
trời cùng những đám khói dày đặc thì còn thấy có
một cái gì đó hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai
bàn tay và bộ óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy
và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị
trấn, thì chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu
xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành
một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây đèn
221chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt
tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn
thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có
thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là
những quán cà-phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ vung
phí tiền lương.
Người đưa đường chỉ một cái quán rượu to, nói:
- Đấy là nhà Hội quán đấy, McGinty là ông chủ.
- Ông ta như thế nào?
- Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta?
- Tôi mới đến.
- Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến
ông ta. Ông ta được đăng báo hoài mà.
- Tại sao lại đăng tên ông ta?
- Ờ chỉ vì... - Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói
222nhỏ - Vì “các vấn đề” ấy mà.
- “Vấn đề” gì?
- “Vấn đề” của những “Người Tiên Phong”.
- Ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc thấy đôi điều gì
đấy về những “Người Tiên Phong”. Chúng nó là một
bọn sát nhân, phải không?
Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng:
- Anh muốn sống thì im ngay đi. Này anh, ở đây mà
ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó!
- Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi.
Anh ta liếc xung quanh, nhìn những bóng đen và đêm
tối, dường như sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó.
- Nếu giết người có nghĩa là ám sát, thì ở đây
những vụ ám sát đem bán mớ cũng không hết. Nhưng
anh đừng có dại dột mà đem cái tên của McGinty đi
223kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ
cho bất cứ ai xì xào về ông ta. Đây, căn nhà mà anh
tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó.
McMurdo bắt tay người bạn mới: - Xin cám ơn anh.
Rồi anh đi lên con đường dẫn vào nhà, và gõ cửa.
Hai cánh cửa mở ngay ra: Trước mặt anh là một phụ
nữ còn trẻ, đẹp, kì lạ. Cô ta có dáng người xứ Thụy
Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi
mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên
lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên,
thực là một đóa hoa tươi thắm nở trên một đống than
xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời
và cuối cùng cô ta phải lên tiếng:
- Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba
tôi lên phố, cũng sắp về.
224McMurdo vẫn cứ ngắm say sưa:
- Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở
trọ.
- Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie Shafter, con
gái ông Shafter. Mẹ tôi đã mất, và chính tôi trông
nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh lò sưởi
để chờ ba tôi về. À, mà kìa, ba tôi về tới rồi!
Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà, McMurdo
giải thích ngắn gọn lí do anh đến đây. Ông già
Shafter nhanh chóng đồng ý giá mười hai đô-la mỗi
tuần, trả trước cả tiền ăn, tiền phòng.
2. NGƯỜI TRƯỞNG TOÁN
McMurdo là một người muốn ai cũng phải để ý đến
mình. Chỉ sau một tuần lễ, anh ta đã trở thành nhân
vật quan trọng nhất trong nhà trọ. Buổi tối, khi
225những người ở trọ tại đây ngồi với nhau, thì anh
chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm
cho họ phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh
lan tỏa sự vui vẻ ra xung quanh. Đối với những
người đại diện cho pháp luật, anh tỏ thái độ khinh
thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là
thích thú hoặc là lo ngại.
Ngay từ khi mới đến trọ, anh đã công khai bộc lộ
sự ngưỡng mộ đối với cô thiếu nữ trong nhà từ phút
đầu tiên, cô gái đã chiếm hoàn toàn trái tim anh.
Trong ngày thứ hai, anh nói thẳng rằng anh đã yêu
cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại
cái điệp khúc ấy.
- Cô có người khác rồi à? Cô hãy bảo cái người ấy
lo công việc riêng của anh ta đi. Còn tôi, tôi sẽ
226không để lỡ dịp may duy nhất của đời tôi. Ettie,
hiện giờ cô có thể nói: “Không”, nhưng một ngày nào
đó, rồi cô sẽ trả lời là: “Có”. Tôi còn trẻ, tôi
đợi được.
Đó là một gã si tình nguy hiểm với tác phong trắng
trợn Ireland, và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến
mê người. Thêm nữa, anh ta được bao bọc trong hào
quang của những chuyện phiêu lưu và bí mật, vòng
hào quang dễ làm cho một người phụ nữ phải chú ý,
và từ đó dẫn đến tình yêu thì nào có xa xôi gì. Anh
ta kể về những thung lũng thanh bình, về hòn đảo
xa xăm và đẹp như trong những chuyện thần tiên, về
những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh
mướt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kì lạ đã
xảy đến với anh ta trong cái thành phố Chicago quá
227kì lạ, quá bí mật. Anh ta gợi lại với một vẻ trầm
ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi đột ngột, một cuộc
chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm u
này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen
ánh lên một niềm thương xót và thông cảm.
McMurdo làm kế toán. Anh bận suốt ngày, và cũng
chưa có thì giờ đến trình diện ở chi nhánh của “Hội
những Người Tự Do”. Scanlan đến nhà trọ của cụ
Shafter vào một buổi tối. Scanlan là một mẫu người
nhỏ bé láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui lòng
khi gặp lại McMurdo. Sau vài ngụm, anh ta đi vào
lí do của cuộc viếng thăm:
- Này McMurdo, sao anh chưa trình diện ông Toán
trưởng?
- Tôi bận.
228- Làm gì thì làm, nhưng phải tới gặp McGinty ngay
đi. Lẽ ra ngay sau ngày anh đến, anh phải trình
diện ở trụ sở Hội rồi, anh không được làm ăn bê bối
với ông ta.
McMurdo có vẻ ngạc nhiên.
- Tôi là một Hội viên đã hơn hai năm rồi. Sao lại
phải đi trình diện gấp đến thế?
- Ở Chicago thì có lẽ cũng không cần gấp như thế
đâu.
- Ở đây cũng là một Hội ấy chứ?
- Cùng một Hội à? - Scanlan nhìn McMurdo trừng
trừng, mắt ánh lên một tia sáng đe dọa.
- Thế không phải là cùng một Hội sao? - McMurdo
hỏi lại.
- Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng
229hay không cùng này. Tôi nghe nói là bữa nọ trên
tàu, anh có đối đáp gì đó với mấy tay cảnh sát.
- Sao anh biết?
- Ồ, tin tức bay đi mà. Ở đây tin tức bay đi nhiều
lắm, tốt cũng có, xấu cũng có. Ồ! Anh sẽ là người
lí tưởng của McGinty đó.
- Sao vậy? Ông ta cũng ghét cảnh sát ư?
Scanlan bật cười, đứng dậy:
- Hãy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, thì không
phải ông ta ghét cảnh sát, mà là ghét anh đó.
Cũng đêm đó, ông già Thụy Điển mời anh chàng trẻ
tuổi vào phòng ông.
- Tôi có cảm giác là anh đang ve vãn con gái tôi.
- Cháu yêu cô ấy.
- Thế thì anh tốn công vô ích. Có người đã đến
230trước anh rồi.
- Cô ấy đã nói với cháu như thế.
- Con bé có nói với anh là ai không?
- Cháu có hỏi, nhưng cô ấy không nói.
- Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hãi đấy.
- Làm cháu sợ hãi à?
McMurdo đã bắt đầu nóng mặt.
- Đúng đó, anh bạn. Nó là thằng Teddy đó.
- Cái thằng Teddy Baldwin ấy là một thứ ma quái dữ
dằn hay sao?
- Nó là một trong những thằng chủ của bọn “Người
Tiên Phong” đấy.
- “Người Tiên Phong” à? Tại sao mọi người ở đây
lại phải sợ chúng đến thế?
Ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống.
231- ”Người Tiên Phong” là hội viên của “Hội những
Người Tự Do”.
Người trẻ tuổi giật mình.
- Cháu cũng là Hội viên của Hội ấy đấy.
- Anh à? Nếu tôi biết thế, thì tôi không cho anh
vào nhà. Dù anh có trả đến một trăm đô-la một tuần
đi nữa.
- Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây tình
bạn tốt. Bác hãy đọc điều lệ của nó mà xem.
- Ở nơi khác thì như thế đó. Nhưng ở đây thì
không.
- Ở đây nó thế nào?
- Một bọn sát nhân. Thế thôi.
McMurdo đáp lại bằng một nụ cười hoài nghi:
- Bác chứng minh được điều đó không?
232- Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng
minh hay sao? Trong vùng thung lũng này, không ai
không biết những việc ấy.
McMurdo nói rất nghiêm trang:
- Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa
nói, nếu không thì bác phải giải thích.
- Tôi chỉ nhắc lại cho anh những gì mà tất cả mọi
người ở đây đều nói. Những người chủ của Hội, thì
cũng là những người chủ của bọn “Tiên Phong”. Nếu
ai làm gì phật ý của Hội, thì bọn “Tiên Phong” sẽ
ra tay ngay.
- Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia.
- Nếu anh còn ở lại Vermissa này, thì rồi anh sẽ
có những chứng cớ. Nhưng tôi quên mất rằng anh cũng
ở trong cái băng ấy, thì rồi anh cũng chẳng hơn gì
233bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa ông, xin
ông đi tìm một nơi trọ khác.
Thế là McMurdo bị kết án phải đi đày đến hai lần:
Đi đày khỏi căn buồng ấm cúng và đi đày xa người
thiếu nữ. Anh đi tìm Ettie.
- Ba em mới vừa đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn
buồng thôi thì anh có cần gì. Nhưng mà, anh không
thể sống không có em được!
- Ồ, ông McMurdo. Xin ông đừng nói thế. Ông đã đến
quá muộn. Em chưa hứa hôn với hắn nhưng em cũng
không thể hứa hôn với người khác được.
- Thế nếu anh là người đến trước, thì liệu anh có
một tia hi vọng nào không?
Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở:
- Em thề trước Thượng đế, em muốn anh là người đầu
234tiên đến với em.
McMurdo quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên:
- Anh van em, em hãy làm theo tiếng gọi của trái
tim mình. McMurdo nắm lấy bàn tay cô gái.
- Em hãy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ
cùng nhau xây dựng cuộc đời.
- Nhưng không phải ở đây chứ?
- Ở đây, ngay ở đây em ạ.
- Không, không, anh...
McMurdo ôm chặt cô gái trong vòng tay. Cô gái
không chống cự.
- Ở đây thì không được đâu anh. Nhưng... anh có
thể đi với em được không?
Một trận bão nội tâm làm rung động nét mặt người
thanh niên. Môt lát sau, khuôn mặt anh đanh lại.
235- Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống lại cả
thế giới.
- Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác?
- Không, anh không thể đi được.
- Tại sao?
- Nếu chúng ta yêu nhau thì ai dám ngăn cản?
- Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng
Teddy đâu. Anh cũng không biết McGinty và bọn “Tiên
Phong”.
- Anh đã sống giữa những con người dữ tợn, và bao
giờ rồi cuối cùng chính chúng phải kiềng anh. Nếu
bọn chúng đã phạm tội thì tại sao không ai đưa
chúng ra trước pháp luật?
- Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng.
Người nào làm như vậy, thì ngay trong tháng đó sẽ
236chết.
- Có thể người ta tìm cách làm hại chúng và chúng
không có cách gì khác để tự vệ chăng?
- Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. Hắn cũng
nói đúng như vậy đó... cái thằng ấy.
- Thằng Teddy ấy à? À, nó nói như vậy có phải
không?
- Và vì vậy mà em ghét hắn. Em ghét hắn, nhưng em
sợ hắn. Cho nên em cứ phải tìm cách tránh né bằng
những lời hứa nửa vời. Nhưng nếu anh chịu đi với
em, thì chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống mãi mãi
với nhau.
Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên
cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, và một lần nữa, một
quyết định không gì lay chuyển.
237- Sẽ không có gì nguy hại xảy đến cho em và ba em
đâu. Còn về cái bọn độc ác kia, anh tự hỏi không
biết rồi em có ngạc nhiên khi thấy rằng anh còn độc
ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bọn chúng không,
trước khi chúng ta lấy nhau.
- Không, em tin anh... tin suốt đời.
Trên môi McMurdo nở một nụ cười cay đắng.
- Em biết anh còn ít quá, em không thể đoán biết
được những gì diễn ra trong tâm hồn anh đâu. Này,
ai đến kia?
Hai cánh cửa bỗng bật mở toang ra, và một người
trẻ tuổi bước vào với dáng điệu dương dương tự đắc,
hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc dáng và tuổi tác
cũng vào cỡ của McMurdo. Dưới chiếc mũ phớt đen
vành rộng, cặp mắt dữ tợn nhìn chăm chăm vào đôi
238trai gái đang ngồi cạnh lò sưởi.
Ettie vội vàng đứng bật dậy, hoảng hốt.
- Tôi rất hân hạnh được ông đến chơi, ông Teddy.
Xin mời ông ngồi.
Ted hai tay chống nạnh, nhìn thẳng vào mặt
McMurdo, hỏi:
- Người này là ai?
- Một người khách trọ mới. Ông McMurdo, ông cho
phép tôi giới thiệu với ông, ông Teddy.
Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh
nhạt:
- Cô đây đã cho anh biết mối quan hệ của cô ta với
tôi rồi chứ?
- Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta với
anh cả.
239- Cô gái này là của tôi, và bây giờ thì anh đi
chơi đi, ngoài kia trời dễ chịu lắm đấy.
- Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi thơi.
- Lại thế nữa kia! - Đôi mắt của Teddy rừng rực
tức giận - Thế chắc ông thích đánh nhau có phải
không, thưa ông khách trọ?
McMurdo nhảy dựng lên:
- Anh đã đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại nói
một lời đúng hơn như thế nữa!
Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hãi:
- Ôi, anh McMurdo! Ôi, anh McMurdo!
- Ồ, người ta gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá
nhỉ?
- Ông Teddy Baldwin, ông có thấy hứng thú đi dạo
một vòng ngoài đường kia không? Trời ban đêm đẹp
240lắm, đúng như ông đã nói, ở đằng sau nhà bên cạnh
này có một cái bãi trống tiện lợi lắm, ông ạ.
- Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn
tay. Anh sẽ hối hận là đã đặt chân vào nhà này.
- Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ!
- Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc
ấy. Này, nhìn đây! - Teddy kéo ống tay áo lên và
chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt: Một hình tam giác
nằm trong một đường tròn.
- Anh có biết cái này là cái gì không?
- Tôi không biết và cũng chẳng cần biết.
- Thế thì rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho
anh. Con kia, mày sẽ quỳ xuống và van xin trở về
với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao trừng phạt mày như
thế nào. Mày đã gieo... thì tao sẽ cho mày gặt...
241Hắn giận dữ, nhìn hai người một lần cuối, rồi quay
gót đi ra và sập cửa lại.
Trong giây lát, McMurdo và người thiếu nữ đứng
lặng đi. Nhưng rồi người thiếu nữ nhào tới ôm chặt
lấy anh:
- Ôi, anh McMurdo, anh can đảm biết bao nhiêu.
Nhưng anh phải trốn ngay tối nay, nó sẽ giết anh.
Em đã nhìn thấy trong mắt nó. Làm sao mà anh chống
cự được với cả băng của chúng!
McMurdo dịu dàng hôn thiếu nữ và dìu cô ngồi xuống
ghế.
- Em đừng có lo. Anh cũng là một hội viên trong
“Hội những Người Tự Do”, anh đã nói với ba em rồi,
và bây giờ anh cũng nói cho em biết nữa, đừng ghét
bỏ anh .
242- Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh
cũng là một Hội viên, tại sao anh không đến lấy
lòng ông McGinty. Ôi, anh đi ngay đi.
- Anh cũng có ý đó. Em có thể nói với ba em là đêm
nay anh còn về ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi
tìm một căn phòng khác.
Quầy rượu của quán McGinty đông nghẹt khách gồm
toàn những bọn hạ lưu của thị trấn.
McGinty là một nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được
che đậy bằng tác phong của một người vui tính, xởi
lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hãi mà hắn gieo rắc
không những ở Vermissa, mà cả trên năm mươi cây số
vuông của cái thung lũng này, cũng đủ lôi kéo khách
đến quán rượu của hắn rồi.
McGinty đã được bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn
243giữ chức vụ ủy viên Hội đồng Thành phố, và Quận
trưởng cảnh sát giao thông. Thuế má và các khoản
tiền đóng góp rất lớn, những công trình công cộng
thì bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân thì bị bóp méo
sự thật. Người dân thường bị bắt buộc phải câm
miệng vì sợ bị tai họa. Thế là năm này qua năm
khác, quán rượu của ông ta đã phình ra đến mức đe
dọa nuốt hết cả một góc của phố chợ.
McMurdo đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn
ào, trong một bầu không khí dày đặc khói thuốc và
sặc sụa mùi rượu. Căn phòng được thắp đèn sáng
choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng treo
trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội
không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu,
tay áo sơ-mi xắn lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho
244những khách hàng. Ở một đầu, đứng dựa mình vào
quầy là một người đàn ông cao lớn. Đó là McGinty.
Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ
xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước
da mai mái của một người Italia, đôi mắt đen nhìn
không chớp, trông rất dữ tợn. Tất cả phần còn lại,
một thân hình cân đối, nét mặt thanh tú, tác phong
cởi mở, phù hợp với cái dáng điệu vui tính và chịu
chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rõ. Một
người khách lạ sẽ nghĩ rằng, đây là một tay làm ăn
lương thiện. Nhưng khi đôi mắt hung bạo kia nhìn
trừng trừng vào người khác, thì người này sẽ bắt
đầu run sợ, và cảm thấy mình đang đứng trước một
thiên tai thực sự.
Sau khi đã quan sát kĩ con người đó, McMurdo huých
245cùi tay gạt một đám xu nịnh đang bao quanh. Đôi
mắt táo bạo của người thanh niên như đóng đinh vào
đôi mắt đen đang soi mói nhìn anh.
- Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt anh ở đây.
- Tôi mới đến, thưa ông McGinty.
- Nhưng không vì thế mà không biết thưa gửi với
một người có chức vụ.
Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích: - Này
anh, đây là ông Hội đồng McGinty đó.
- Rất tiếc, thưa ông Hội đồng. Tôi chưa biết hết
các tập quán ở đây. Nhưng người ta có khuyên tôi
đến gặp ông.
- Thế thì anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế
nào?
246- Ồ, nói ra bây giờ còn sớm quá. Nhưng nếu trái
tim của ông cũng to như thân hình ông, và nếu tâm
hồn ông cũng đẹp như bề ngoài của ông, thì tôi tự
thấy là bằng lòng rồi.
Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ
ngàng, không biết nên cười cợt hay giữ một vẻ
nghiêm trang với tên thanh niên này. Một lát sau,
hắn mới quyết định.
- Hừ, đúng là kiểu ăn nói Ireland rồi. Thế là tôn
ông đã hài lòng về phần người ngợm của tôi rồi,
phải không?
- Chắc chắn thế.
- Và người ta bảo anh đến gặp tôi?
- Vâng.
- Ai nói?
247- Môn huynh Scanlan, chi nhánh 341, của Vermissa.
Tôi xin nâng li mừng sức khỏe của ông, ông Hội
đồng.
McMurdo vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. McGinty
chăm chú theo dõi anh ta và bỗng nhíu cặp mày đen
rậm lại nói:
- Ồ, ra thế đấy. Vậy thì tôi phải xét trường hợp
của ông một cách cặn kẽ hơn, thưa ông...
- ... McMurdo
- Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông McMurdo, vì ở
đây không ai tin lời nói của ai cả. Xin mời qua
đằng sau quầy này.
Ở đó có một căn phòng nhỏ với những thùng rượu xếp
dọc theo tường. McGinty đóng cửa rồi ngồi lên một
thùng, vừa cắn vào điếu xì-gà vừa quan sát người
248thanh niên. Hai phút trôi qua như thế.
McMurdo chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui
vẻ. Anh ta đút một tay trong túi áo vét, còn một
tay thì vân vê râu mép.
Đột nhiên McGinty chồm người về phía trước và chìa
ra một khẩu súng lục.
- Này, thằng kia! Nếu mày định chơi tao thì cái
này sẽ đưa mày sang thế giới bên kia ngay.
McMurdo bình tĩnh trả lời:
- Đón tiếp một môn huynh như thế này thì quả thật
là kì cục, nhất là khi người ta lại là một Toán
trưởng trong chi nhánh của “Hội những Người Tự Do”.
- Anh được nhập hội ở đâu?
- Chi nhánh 29, Chicago.
249- Bao giờ?
- Ngày 24 tháng 6 năm 1871.
- Tên Toán trưởng?
- J.H.Scott.
- Ai chịu trách nhiệm toàn khu?
- Bartholomew Wilson.
- Đến Vermissa làm gì?
- Tôi cũng đi làm như ông.
- Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ?
- Vâng, tôi không bị ngọng.
- Thế trong hành động, anh có được lanh lẹ không?
- Tôi nổi tiếng về việc ấy.
- Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đã nghe nói
đến chi nhánh ở đây bao giờ chưa?
- Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một
250con người đã, rồi sau mới thành một môn huynh ở
đây được.
- Đúng thế. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi?
- Ông đừng hòng bắt tôi khai.
McGinty trố mắt ra nhìn. Hắn không quen nghe những
câu trả lời như vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ
nghĩnh.
- Tại sao vậy?
- Vì một môn huynh không được phép nói dối với một
môn huynh khác.
- Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ gì?
- Nếu ông muốn hiểu như vậy, thì xin tùy ông.
- Một người Toán trưởng như tôi, chắc sẽ không đưa
một ai vào trong chi nhánh Hội, khi chưa biết quá
khứ của anh ta.
251McMurdo tỏ vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở
túi áo ra một mảnh báo cũ, và còn hỏi lại:
- Ông không phản thùng tôi chứ?
- Mày mà còn nói cái kiểu ấy thì tao đập vỡ mặt
mày ra bây giờ. McMurdo tỏ vẻ hối tiếc:
- Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi
biết rằng ở trong tay ông thì tôi sẽ được an toàn.
Ông hãy đọc mảnh báo này đi.
McGinty đọc lướt qua bài báo đưa tin về vụ án mạng
Jonas Pinto ở quán rượu Lake, phố Market, tại
Chicago, đêm mồng 1 tháng 1 năm 1874. Hắn đưa trả
lại mảnh báo cũ, hỏi:
- Anh làm cái việc ấy à?
McMurdo trả lời bằng một cái gật đầu.
- Tại sao anh lại hạ nó?
252- Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô-la. Có
lẽ những đồng đô-la của tôi làm ra, vàng không đủ
tuổi như đồng đô-la của nhà nước, nhưng trông nó
vẫn có vẻ dùng được. Cái tên Pinto này giúp tôi
tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm hắn nói rằng sẽ đi
tố cáo tôi. Tôi hạ hắn ngay, rồi đến đây...
- Tại sao lại đến cái xứ than này?
- Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm.
McGinty bật cười.
- Thế là trước hết anh là một thằng làm bạc giả,
rồi sau là một tên giết người, và anh nghĩ rằng đến
đây, anh sẽ được người ta đón tiếp tốt có phải
không?
- Vâng, đại khái là như vậy.
- Thế bây giờ anh còn làm được những đồng đô-la ấy
253không? McMurdo móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng
đưa cho McGinty.
- Đây ông xem.
- Thật không?... Không nói đùa đấy chứ?
McGinty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên
bàn tay to tướng.
- Không thấy có gì khác cả. Cha mẹ ơi, thế này thì
anh sẽ là một môn huynh đắc lực đây. Ở đây chúng
tôi cũng có thể nhận một vài tay đầu bò đầu bướu.
- Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong
cuộc tự vệ đó.
- Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không
xao động khi tôi chĩa súng vào anh?
- Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm.
- Thế thì ai vậy?
254- Ông.
McMurdo rút trong túi áo vét ra một khẩu súng sáu
đã lên đạn.
- Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa
qua, tay tôi cũng nhanh không kém gì ông đâu.
Ông Hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên
cười.
- Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội
ta sẽ được kiêu hãnh về anh đó... Cái gì thế này?
Chúng mày không thể để yên cho tao được nói chuyện
đến năm phút với một vị khách quý hay sao?
Người hầu bàn cúi đầu:
- Xin lỗi ông Hội đồng, có ông Teddy Baldwin. Ông
ấy muốn gặp ông gấp.
Lời báo ấy là vô ích, Teddy đã hiện ra trong khung
255cửa.
Hắn gạt người hầu ra rồi đóng cửa lại, và nhìn
McMurdo bằng một cặp mắt nảy lửa.
- Thế là mày đã đến đây trước tao rồi hả? Được,
ông Hội đồng, tôi có câu chuyện muốn nói với ông về
cái tên này.
McMurdo nói như hét:
- Thì mày nói ngay đi, nói trước mắt tao đây này.
- Tao sẽ nói lúc tao cần nói, và nói theo cách của
tao. McGinty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can
thiệp.
- Teddy, đây là môn huynh mới đến, chúng ta không
được đón tiếp anh ta như vậy. Hãy chìa tay ra làm
lành với nhau đi.
- Không đời nào! - Teddy hét lên.
256- Tôi đã mời anh ta đấu với tôi bằng tay không,
hoặc bằng bất cứ thứ vũ khí nào. Thưa ông Hội đồng,
bây giờ tôi xin để ông phân xử cho chúng tôi.
- Thế giữa hai anh có chuyện gì vậy?
- Một cô gái trẻ tuổi.
- Tự do à? - ông Toán trưởng nói tiếp - Vì đây là
giữa hai môn huynh trong cùng một chi nhánh Hội,
nên cô gái đó hoàn toàn tự do.
- Ồ! Luật lệ của ông là như thế đấy hả?
- Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Teddy!
McGinty nhìn hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn: -
Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy?
- Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ
năm năm nay, để ôm vào lòng một tên mà ông chưa bao
giờ gặp mặt. Mẹ kiếp, đến kì bầu phiếu sắp tới...
257Ông Hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt
hai bàn tay vào quanh cổ tên kia và vật ngửa hắn
lên một thùng rượu. McMurdo can thiệp. Anh kéo ông
Hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Teddy bị khuất
phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu.
- Teddy, đã từ lâu mày đáng được một trận như thế
này. Ngày hôm nay thì mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày
tưởng rằng nếu tao không được bầu lại làm Toán
trưởng thì mày sẽ chiếm chỗ của tao phải không? Rồi
đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt về việc này. Nhưng
chừng nào tao còn là Toán trưởng, thì không một đứa
nào được mở mồm ra chống lại những điều tao đã
quyết định, nghe rõ chưa?
Teddy vừa xoa bóp cổ vừa lắp bắp nói: - Tôi có
chống ông cái gì đâu.
258Thế là McGinty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách
ra vẻ hồ hởi thường ngày của hắn.
- Ồ, nếu thế thì thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với
nhau cả. Và việc này coi như đã xong.
Lão lấy từ trong hốc tủ ra một chai sâm-panh, bật
nút mở rượu, rót đầy vào ba cốc có chân:
- Nào, chúng ta hãy uống li rượu hòa giải. Sau
tuần rượu này, không có một cuộc cãi lộn nào nữa.
Vậy thì bây giờ Teddy, hãy để tay trái của anh lên
cổ tôi đi.
Rồi lão nói tiếp:
- Thưa ông. Ông nghĩ sao khi bị xúc phạm?
- Những đám mây đều nặng nề.
- Nhưng chúng sẽ tan đi, để không bao giờ trở lại
nữa.
259- Và điều đó tôi xin thề.
Hai người uống cạn li rượu và nghi lễ đó lại diễn
ra giữa Teddy và McMurdo.
McGinty xoa tay vui vẻ nói:
- Được rồi. Thế là cuộc cãi lộn đã kết thúc. Nếu
nó còn tái diễn thì các anh sẽ phải chịu sự trừng
phạt của Hội.
McMurdo chìa tay ra cho Teddy bắt:
- Tôi thật không dám thế. Tôi dễ gây lộn, nhưng
cũng dễ tha thứ. Người ta bảo đó là dòng máu
Ireland. Nhưng đối với tôi thế là xong, và tôi
không thù hằn gì cả.
Teddy đành phải giơ tay ra bắt, vì đôi mắt của ông
Toán trưởng không rời hắn.
McGinty ôm lấy vai của hai người, thở dài:
260- Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy
ấy lại có thể làm cho hai chàng trai của tôi đến
phải trở thành đối thủ của nhau. Nhưng những chuyện
này vượt ra ngoài thẩm quyền của người Trưởng toán
rồi. Môn huynh McMurdo, anh được nhập vào chi
nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ
bảy. Nếu anh đến dự, anh sẽ mãi mãi là một người Tự
Do ở cái thung lũng này.
3. CHI NHÁNH 341 Ở VERMISSA
Ngày hôm sau, McMurdo dọn đến nhà một bà góa chồng
tên là Widow McNamara ở ven thị trấn. Scanlan ít
lâu sau cũng có việc về Vermissa nên hai người đến
ở chung với nhau.
Bà chủ trọ đã già, tính kín đáo và biết điều.
Ngoài McMurdo và Scanlan ở, không có ai khác cùng
261trọ, nên họ có thể ăn nói, hoạt động rất tự do. Cụ
Shafter cũng đồng ý để McMurdo khi nào muốn, cứ đến
nhà dùng cơm, thành ra quan hệ của anh với Ettie
không bị đứt đoạn, mà trái lại cứ ngày càng chặt
chẽ, thân thiết hơn.
McMurdo bày những cái khuôn dập bạc giả ra. Một
vài môn huynh của chi nhánh được phép bí mật đến
nhà anh, và khi ra về thì túi nặng những đồng bạc
mới. Những người cùng làm với anh thường thắc mắc
tại sao anh có tài như vậy, mà lại chịu hạ mình đi
làm công. Anh trả lời rằng nếu anh không có những
nguồn thu nhập chính đáng, thì cảnh sát sẽ điều tra
về đời sống của anh ngay. Sau cuộc gặp mặt lần đầu
tiên với McGinty, anh thường lui tới quán rượu để
biết “những chàng trai”. Đó là cái tên rất dễ
262thương mà bọn quỷ sứ trong khắp vùng này tự đặt cho
mình. McMurdo nổi tiếng trong bọn vì sự nóng nảy
và về cách ăn nói táo tợn của anh. Một buổi tối,
khi quán rượu đang đông khách, thì có một người
bước vào. Người đó mặc binh phục màu xanh và đội mũ
lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đây là một đơn vị
đặc nhiệm đã được ban điều hành của các công ty xe
lửa, mỏ than và mỏ sắt cùng dựng lên để hỗ trợ cho
cảnh sát dân sự. Khi người đó vừa mở cửa bước vào
thì cả căn phòng bỗng im bặt, cả mấy trăm con mắt
đều đổ dồn nhìn như xiên vào mặt anh ta. McGinty
đứng sau quầy rượu, không tỏ ra một chút ngạc nhiên
nào khi thấy viên thanh tra ngồi vào giữa đám
khách quen của ông ta.
- Một li whisky nguyên chất. À, ông Hội đồng, hình
263như chúng ta chưa gặp nhau lần nào thì phải?
- Anh là đại úy mới đến đây phải không?
- Chính tôi. Chúng tôi kêu gọi ông và tất cả mọi
công dân, hãy giúp đỡ chúng tôi giữ vững luật pháp
và trật tự trong thị trấn này. Tôi là đại úy Marvin
của Công ty Than và Sắt.
- Không có ông, chúng tôi thu xếp còn tốt hơn đấy.
Bởi vì chúng tôi có đội cảnh sát riêng. Ông chỉ là
một công cụ tư bản, đến đây để quất roi gân bò và
bắn giết những người công dân nghèo mà thôi.
Viên sĩ quan cảnh sát cười: - Không nên cãi vã với
nhau.
Anh ta uống cạn li rượu và sắp đi ra thì chợt
trông thấy McMurdo đang đứng cười gằn gần đó. Anh
ta vừa nhìn McMurdo từ trên xuống dưới vừa vui vẻ
264gọi:- À, một người quen cũ đây. McMurdo lảng ra.
- Tôi chưa bao giờ là bạn của ông. Đại úy Marvin
phá lên cười.
- Một người quen không nhất thiết phải là một
người bạn. Anh là McMurdo, ở Chicago.
McMurdo nhún vai, đáp lời ngay:
- Tôi không chối tên tôi. Anh tưởng tôi xấu hổ vì
cái tên tôi à?
- Nếu anh có cảm thấy xấu hổ về cái tên của anh,
thì cũng có lí thôi.
McMurdo đã nắm chặt tay lại thành hai nắm đấm và
gầm lên:
- Tôi yêu cầu ông giải thích những điều ông vừa
mới nói?
- Đừng có lên mặt anh chị với tôi. Trước khi tôi
265đến đây, tôi là một quan chức ở Chicago, và khi tôi
trông thấy một thằng lưu manh của Chicago, tôi
phải nhận ra được nó chứ.
McMurdo tái nhợt người, thốt lên:
- Chắc ông không phải là Marvin của Sở cảnh sát
Trung ương ở Chicago chứ?
- Tôi luôn luôn vẫn là Marvin ấy đấy. Chúng tôi
cũng vẫn chưa quên được cái thằng Pinto đã bị giết.
- Tôi không giết nó.
- Thật à? Thế thì cũng hơi lạ đó. Bởi vì cái chết
của nó đỡ cho anh biết mấy. Nó mà khai ra được
trước tòa, thì anh đã vào chảo rang lâu rồi. Nhưng
thôi, không nói chuyện quá khứ nữa. Này, tôi nói
riêng với anh một chuyện đáng lẽ tôi không được
266phép nói ra: Cái vụ ấy mà, về phần anh không có gì
là rõ ràng đâu. Ngày mai anh có thể trở về Chicago,
nếu anh muốn. Anh sẽ không bị phiền đâu.
- Tôi ở đây rất tốt, chẳng phải đi đâu cả.
- Ờ thì tùy, tôi đã mách nước cho anh, đáng lẽ anh
nên có một lời cảm ơn mới phải.
McMurdo trả lời một cách lạnh nhạt:
- Thì cứ cho là ông muốn làm cho tôi vui lòng đi,
cảm ơn.
- Chừng nào mà tôi còn thấy anh trên con đường tốt
thì tôi sẽ không nói gì. Nhưng nếu anh lại muốn
giở trò, thì lúc đó sẽ là câu chuyện khác đấy.
Thôi, chào anh. Chào ông, ông Hội đồng!
Marvin bước ra khỏi quán. Tin tức nhanh chóng loan
ngay đi rằng McMurdo đã tác yêu tác quái ở
267Chicago. Trước đây, khi có người hỏi anh về việc
này, anh ta chỉ tránh nó với nụ cười của một người
không muốn ai làm rùm beng một câu chuyện chẳng
đáng gì. Bây giờ câu chuyện đó đã được chính thức
xác nhận. Những khách quen đến bao quanh anh và âu
yếm bắt tay anh ta.
Từ nay trở đi, anh đã có một địa vị xứng đáng
trong tập thể.
Một tối thứ Bảy, McMurdo được đưa ra trình diện
trước Hội viên trong chi nhánh.
Cuộc họp được triệu tập trong một căn buồng rộng ở
nhà hội quán. Khoảng sáu mươi hội viên có mặt. Họ
chỉ là một phần rất nhỏ của tổ chức thôi, vì có
nhiều chi nhánh khác hoạt động ở trong thung lũng
cũng như ở phía sườn núi bên kia. Trong tất cả khu
268mỏ này, tổng số hội viên như vậy không dưới năm
trăm tên.
Những người tới họp tập trung quanh một chiếc bàn
dài trong căn buồng hoàn toàn trơ trụi, không có
bất cứ một thứ đồ vật trang trí nào. Ở một phía, có
một cái bàn khác, trên xếp đầy rượu và li. Một số
môn huynh đã để mắt liếc nhìn về phía đó.
McGinty ngồi ở một đầu bàn, đầu đội một cái mũ
hình bình thiên bằng nhung đen, vai khoác một tấm
áo choàng bằng nhung đỏ.
Những vị chức sắc cao cấp nhất của chi nhánh,
trong số đó có Teddy, bao quanh ông ta. Người nào
cũng có đeo một cái cuống hay một huy chương chỉ rõ
ngôi thứ và chức vụ. Phần đông trong số họ là
những người đã có tuổi, số còn lại gồm những thanh
269niên từ mười tám đến hai lăm tuổi làm những tay
chân thừa hành. Trông mặt các hội viên già, người
ta cũng đoán thấy bên trong là những tâm hồn tàn
bạo và bất trị, nhưng khi nhìn đến những người trẻ
tuổi, thì không ai có thể ngờ được rằng những thanh
niên này lại họp thành những băng tội phạm đồi
trụy đến gốc rễ. Chúng cho rằng có thể xin xung
phong đi thủ tiêu những người chưa bao giờ đụng
chạm gì đến chúng, thì mới gọi là có can đảm và có
tinh thần hiệp sĩ. Hồi đầu, chúng còn giữ bí mật về
những hành động của chúng, nhưng vào thời xảy ra
câu chuyện này thì chúng công khai khoe khoang
thành tích. Trong mười năm, chưa một đứa nào trong
bọn chúng phải chịu một án phạt nào.
McMurdo đã được báo trước là sẽ có những lễ nghi
270chờ đợi anh ta. Anh được hai môn huynh đưa vào một
căn buồng biệt lập. Qua tấm vách ngăn bằng ván, lọt
vào tiếng ồn ào của nhiều người nói trong căn
buồng hẹp. Một hay hai lần gì đó, anh nghe nói đến
tên anh. Hình như người ta đang nói với nhau về sự
chấp nhận anh vào chi nhánh Hội. Rồi một người bảo
vệ, bước vào căn phòng anh đang đứng đợi và truyền
cho hai người môn huynh biết.
- Ngài Toán trưởng ra lệnh hãy trói người này lại,
bịt mắt và đưa vào trình diện.
Cả ba người lột áo anh ra, vén tay áo sơ-mi bên
phải lên và trói giật cánh khuỷu anh ra đằng sau.
Rồi họ đội lên đầu anh một chiếc mũ lưỡi trai bằng
thứ vải đen dày, và ấn sâu xuống cho đến che hết
phần trên của mặt, anh được dẫn vào phòng họp.
271Anh có cảm giác là đêm tối đen như mực. Anh nghe
tiếng thì thào của những người dự họp, rồi tiếng
nói của McGinty.
- McMurdo, anh đã là hội viên của “Hội những Người
Tự Do” chưa?
McMurdo gật đầu.
- Chi nhánh của anh có phải là số 29 của Chicago
không? McMurdo lại gật đầu.
- Những đêm đen tối rất khó chịu...
- ... Cho những người lạ mặt phải đi lại.
- Những đám mây đều nặng nề.
- Một cơn bão sắp lại gần.
- Các môn huynh đã thỏa mãn chưa?
Có một tiếng rì rầm chứng tỏ sự đồng ý.
- Môn huynh, anh đã đáp đúng được mật hiệu, chúng
272tôi biết anh thật sự là người trong Hội. Nhưng
chúng tôi cũng muốn anh biết rằng trong khu vực
này, chúng tôi có những nghi lễ và những điều bắt
buộc đòi hỏi phải có lòng dũng cảm. Vậy, anh có sẵn
sàng để chịu đựng không?
- Có.
- Anh có can đảm không?
- Có.
- Hãy tiến lên một bước.
Vừa nghe đến đây thì anh cảm thấy có hai mũi nhọn,
cứng ở đằng trước mắt. Hai mũi nhọn này ấn vào hai
mắt anh khiến anh có cảm giác là nếu tiến lên thì
hai mắt sẽ bị đâm thủng. Mặc dầu vậy, anh vẫn tiến
lên một bước, và hai mũi nhọn biến mất. Anh nghe
thấy những tiếng khen ngợi kín đáo.
273- Anh can đảm đấy. Nhưng liệu có chịu được sự đau
đớn không?
- Không kém bất kì ai.
- Hãy thử thách.
McMurdo đã phải sử dụng tất cả nghị lực mới không
kêu thét lên: Một sự đau đớn khủng khiếp vừa xiên
ngang qua cánh tay anh, suýt làm anh ngất xỉu.
- Tôi có thể chịu được hơn thế nữa.
Lần này thì tiếng vỗ tay nổ vang lên. Chưa bao giờ
chi nhánh ở đây thấy một người mới nhập hội cương
quyết hơn thế. Người ta nhấc cái mũ ở trên đầu anh
xuống, và vỗ vào lưng anh đồm độp. Anh vẫn đứng im,
chớp chớp mắt cười trong khi các môn huynh tới
chúc mừng anh.
McGinty nói:
274- Môn huynh McMurdo. Anh đã tuyên thệ giữ bí mật
và trung thành, nhưng chắc anh biết rằng ai phản
bội lời thề đó sẽ bị án tử hình tức khắc chứ?
- Tôi biết.
- Và anh có tuân theo lệnh của người Toán trưởng
trong bất kì hoàn cảnh nào không?
- Có.
- Vậy thì, nhân danh chi nhánh 341 của Vermissa,
tôi mời anh được tham dự vào những nghi lễ và những
đặc quyền của Hội. Môn huynh Scanlan, hãy cho
chúng ta uống rượu đi.
Có một người đem trả lại cho McMurdo chiếc áo vét.
Trước khi mặc vào, anh xem xét lại chỗ cánh tay
phải vẫn còn đau như xé: Một cái ấn bằng sắt nung
đỏ đã in lên đấy hình một tam giác nằm trong một
275đường tròn. Những người đứng xung quanh anh cũng
vén tay lên và chỉ cho anh xem dấu ấn của họ.
- Chúng tôi cũng đã được nhận dấu ấn này, nhưng
không ai dũng cảm được bằng anh đâu.
- Ồ, cũng không có gì ghê gớm lắm - McMurdo trả
lời.
Mấy tuần rượu mừng lễ nhập hội đã xong, chi Hội
bắt đầu bàn đến một số vấn đề thường vụ.
McGinty tuyên bố.
- Việc thứ nhất của buổi họp hôm nay là bức thư
của vị trưởng hạt Windle ở Merton, chi nhánh 249.
Bức thư như sau:
“Quý vị thân mến, có một công việc nhỏ cần làm đối
với Andrew Rae, ở công ty Rae & Sturmash, chủ
những mỏ bên cạnh. Chắc các vị chưa quên là chi
276nhánh các vị còn nợ chúng tôi về việc chúng tôi đã
cử hai môn huynh đến để giúp các vị trong vụ tên
cảnh sát, mùa thu vừa qua. Nếu các vị cử đến cho
chúng tôi hai người tình nguyện, thì họ sẽ được
người thủ quỹ Higgins của chi nhánh chúng tôi trông
nom chu tất và sẽ hướng dẫn họ cách hành động, ở
đâu và lúc nào. Chào huynh đệ.
J. W. Windle D.M.A.O.F.”
- Ông Windle chưa bao giờ từ chối cho chúng ta vay
một hoặc hai người khi chúng ta cần, thì bây giờ
chúng ta cũng không thể từ chối ông ta.
McGinty ngừng lại, đưa mắt nhìn khắp căn phòng. -
Ai xung phong đi làm công việc vặt này?
Mấy thanh niên cùng giơ tay một lượt. Ông Toán
trưởng mỉm cười đồng ý.
277- Tiger Cormac, anh sẽ đi. Nếu anh cũng làm ăn tốt
như lần trước thì mọi việc sẽ bình thường cả thôi,
cả anh nữa, Wilson.
Người xung phong đó thắc mắc:
- Nhưng tôi không có súng lục.
- Đây là trận đầu tiên của anh, có phải không? Thế
thì phải bắt đầu bằng lễ chịu lửa đã. Còn súng
lục, đến nơi sẽ có. Khi nào trở về, sẽ có ăn mừng
trọng thể.
- Thế còn tiền thưởng, lần này thì sao? - Cormac
hỏi.
- Tiền thưởng không phải là thứ quan trọng. Anh ra
tay vì danh dự mà. Khi nào công việc xong xuôi,
người ta cũng sẽ vét được trong ở két bạc đấy một
đôi đồng đô-la cũ rích nào đó để trao cho anh.
278Wilson hỏi:
- Cái người đó đã làm gì?
- Chuyện đó không dính gì đến chúng ta. Công việc
của chúng ta là thay họ thanh toán hắn, cũng như họ
đã thay ta ở đây vậy. À nhân đây cũng nói luôn:
Tuần lễ sau sẽ có hai môn huynh của chi nhánh
Merton đến đây để làm thay chúng ta một công việc
nhỏ.
Có người hỏi:
- Ai đến thế?
- Đừng nên đặt những loại câu hỏi như vậy. Anh chỉ
cần biết đây là những người rất chịu chơi.
Teddy kêu lên:
- Ở đây đang cần có những loại người ấy đấy. Dân
chúng ở đây đã bắt đầu hơi coi thường rồi đó. Trong
279tuần trước, ba người của chúng ta đã bị tên đốc
công Blaker đuổi không cho làm nữa. Chúng ta mắc nợ
với cái thằng này từ lâu rồi, bây giờ phải hoàn
lại đủ cả vốn lẫn lãi cho nó thôi.
McMurdo thì thầm vào tai người ngồi bên hỏi:
- Hoàn vốn như thế nào? Người này phá lên cười:
- Bằng một viên đạn súng săn chứ còn bằng cái gì
nữa. Anh thấy những phương pháp của chúng tôi thế
nào, môn huynh?
McMurdo có vẻ tán thành những phương pháp của cái
hội giết người này:
Phương pháp hay quá. Một chàng trai không phải
thỏ đế thì
- đây tốt quá đi chứ!
Những người ngồi bên vỗ tay tán thưởng, ở đầu bàn
280đằng kia, ông Toán trưởng hỏi với lại:
- Cái gì thế?
- Thưa ông – Vị môn huynh nói - McMurdo thấy
phương pháp làm việc của chúng ta hợp với khẩu vị
của anh ấy lắm.
McMurdo đứng phắt lên, trịnh trọng nói:
- Thưa ông kính mến, tôi muốn nói rằng, nếu thấy
cần đến một người để làm một việc gì đó thì tôi sẽ
tự coi như có danh dự lớn nếu được ông cho làm.
Viên thư kí Harraway - một lão già râu xám ngồi
bên cạnh Toán trưởng, can thiệp ngay:
- Tôi đề nghị là để môn huynh McMurdo chờ đợi khi
nào chi nhánh cần đến.
- Tất nhiên. Đó chính là điều mà tôi muốn nói. Tôi
hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chi nhánh -
281McMurdo đáp lại.
Toán trưởng nói một cách an ủi:
- Rồi sẽ đến lượt anh thôi, môn huynh. Chúng tôi
nhận thấy anh là một con người cương nghị, và tin
chắc rằng anh sẽ làm được những việc xuất sắc. Tối
nay, nếu anh muốn, anh có thể tham dự vào một công
việc nho nhỏ thôi.
- Tôi xin chờ.
- Bây giờ, trước hết tôi yêu cầu thủ quỹ cho chúng
ta biết bản hạch toán tiền nong. Phải trả một số
tiền tuất kha khá cho người vợ góa của Jim
Carnaway.
Một người ngồi bên McMurdo giải thích cho anh ta
hiểu:- Jim đã bị giết tháng trước trong khi đang
định hạ sát Chester Wilcox.
282Thủ quỹ mở sổ sách ra trước mặt, nói:
- Quỹ hiện nay rất phong phú, Max Linder & Co. đã
trả năm trăm đô-la. Hai anh em Walker gửi đến một
trăm đô-la, nhưng tôi đã tự ý gửi trả lại họ, để
đòi năm trăm đô- la kia. Nếu từ nay đến thứ Tư sau
mà tôi không có tin tức gì, thì bộ cần trục của họ
có thể sẽ bị tai nạn. Năm ngoái chúng ta đã bắt
buộc phải đốt cháy cái máy nghiền quặng của họ.
Hiện nay chúng ta có vốn đủ để có thể đương đầu với
bất cứ một yêu cầu nào.
- Thế còn cái vụ Wilcox thì sao?
- Hắn đã bán hết gia sản và đi khỏi khu vực rồi.
Cái thằng quỷ già đó có để lại cho chúng ta một bức
thư nói rằng, thà hắn đi làm nghề quét đường ở New
York còn thú vị hơn là làm một chủ mỏ để bị một
283băng cướp tống tiền khống chế. Quân chó đẻ, cũng
may là hắn đã đi khỏi đây trước khi bức thư đến tay
chúng ta.
Một người đã đứng tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi có dáng
hiền lành hỏi:
- Thưa ông thủ quỹ, tôi có được phép xin ông cho
chúng tôi biết ai đã mua cái lô đất của người mà ta
vừa đuổi chạy khỏi khu vực này không?
- Được, môn huynh Morris. Lô đất ấy đã do Công ty
Hỏa xa ở Merton mua.
- Và ai đã mua lại những mỏ của Todman và của Lee
đem bán đấu giá năm ngoái, cũng vì những lí do như
trên?
- Cũng lại Công ty Hỏa xa.
- Và ai đã mua lại những lò rèn của Manson, của
284Shuman, của Van Deher, rồi cả của Atwood, khi họ bỏ
lại để chạy trốn?
- Tất cả đều được Công ty mỏ tổng hợp West
Gilmerton mua lại hết.
Toán trưởng can thiệp, hỏi lại:
- Môn huynh Morris, tên tuổi của những người đã
đứng tên mua không làm cho chúng ta phải quan tâm,
vì không thể bê những cái bể lò đó ra khỏi vùng này
được kia mà.
- Thưa ngài kính mến, với tất cả lòng tôn kính của
tôi đối với ngài, tôi vẫn nghĩ rằng vấn đề này
phải được chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa. Như thế
là trong mười năm nay, chúng ta vẫn tiếp tục dùng
có một phương pháp thôi. Đó là chúng ta dần dần
đuổi hết những nhà thầu nhỏ ra khỏi nơi đây. Kết
285quả là thế nào? Họ được thay thế bởi những công ty
lớn, mà những giám đốc của các công ty đó thì ngự ở
New York hay Philadelphia, và hoàn toàn coi thường
những đe dọa của chúng ta. Nhưng, khi những công
ty lớn thấy chúng ta là những vật chướng ngại giữa
họ và số tiền lãi, thì họ sẽ không từ bất cứ một cố
gắng nào, để đưa chúng ta ra trước pháp luật.
Mọi người im bặt, nét mặt sa sầm xuống. Từ trước
đến giờ họ vẫn cảm thấy họ có uy lực đến mức không
ai dám khiêu khích họ, và họ cho rằng họ vững như
thành đồng. Ý kiến của môn huynh này đã làm dựng
chân lông những con người bất trị nhất.
Diễn giả nói tiếp:
- Vì vậy ý kiến của tôi là, chúng ta nên nới bớt
tay đối với các chủ nhỏ. Ngày nào mà họ bắt buộc
286phải trốn chạy đi hết, thì ngày ấy quyền lực của
Hội sẽ bị tan vỡ.
Không phải sự thật nào cũng nên nói ra. Khi môn
huynh Morris ngồi xuống, những tiếng kêu giận dữ đã
nổi lên. McGinty đứng dậy, vầng trán bừng bừng:
- Này môn huynh Morris, anh từ trước đến nay vẫn
là người chuyên nói những điều gở dại. Chừng nào mà
tất cả những Hội viên trong chi nhánh vẫn sát cánh
với nhau, thì không có một thế lực nào làm hại đến
chúng ta, những công ty lớn cũng sẽ thấy được là
trả tiền cho chúng ta sẽ đơn giản hơn là chọi với
chúng ta. Và rồi họ cũng sẽ làm theo như các công
ty nhỏ thôi. Còn bây giờ, thưa các môn huynh...
McGinty bỏ cái mũ nhung đen và tấm đai xuống.
- Chi hội chúng ta đã bàn xong mọi công việc tối
287nay, chúng ta chỉ còn một việc nhỏ nữa cần phải nói
trước lúc chia tay. Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng
ta nghỉ xả hơi giải khát một chút và vui hát với
nhau, như anh em trong một nhà.
McMurdo có một giọng nam cao rất hay, anh hát bài
I’m sitting on the stile, Mary và bài On the banks
of Allan water, và hốt hết tình cảm của khán giả.
Ai cũng đoán rằng, rồi đây, anh ta sẽ tiến bước lên
những chức vụ cao nhất trong Hội. Nhưng muốn làm
một “Người Tự Do” trong cái Hội này, cũng đòi hỏi
phải có một vài đức tính khác nữa. McMurdo đã hiểu
ra được điều đó trước khi buổi họp tối hôm ấy kết
thúc. Chai rượu whisky đã được chuyền tay đi mấy
lần. Các chàng trai mặt đỏ như gấc, đã chín muồi để
có thể làm bất cứ một việc gì. Ông Toán trưởng
288tiếp tục:
- Các chàng trai! Trong thành phố có một người
đang cần một bài học. Đó là lão già James Stanger
của tờ báo Vermissa Herald, gần đây hắn lại bắt đầu
há cái mồm to tướng ra để chống lại chúng ta.
Một tiếng rì rào đồng tình đáp lại, pha lẫn đây đó
là một vài câu chửi thề thô tục. McGinty rút ở
trong túi áo ra một mẩu nhật trình, đọc bài Pháp
luật và Trật tự.
“Sự khủng bố đang ngự trị trong vùng than và sắt.
Mười hai năm đã trôi qua từ khi xảy ra những vụ ám
sát đầu tiên chứng tỏ có sự hiện diện của một tổ
chức tội ác trong vùng chúng ta. Từ ngày đó đến
nay, những vụ án mạng không một lúc nào ngừng, và
bây giờ đã lên đến một quy mô làm cho chúng ta trở
289thành một mối ô nhục của thế giới văn minh. Một
tình trạng khủng bố và vô chính phủ sẽ được thiết
lập dưới bóng thiêng liêng của lá cờ tự do hay sao?
Người ta biết rõ những tên cầm đầu. Chúng đã hoạt
động công khai trước mắt mọi người. Chúng ta sẽ còn
phải chịu đựng tình trạng này bao nhiêu lâu nữa.
Chúng ta sẽ sống...”
Ông Toán trưởng vứt mảnh báo xuống bàn.
- Thôi đọc cái thứ văn chương này như thế là đủ
rồi. Đó, hắn nói về chúng ta như vậy đó. Câu hỏi
tôi muốn đặt ra cho các bạn là: Chúng ta sẽ nói gì
với hắn?
Hàng tá tiếng thét hung dữ nổi lên:
- Giết mẹ nó đi!
Môn huynh Morris - cái người có bộ mặt hiền lành
290đó lại đứng lên, cãi lại:
- Tôi đã nói với các môn huynh rằng: Chúng ta đạp
quá nặng xuống thung lũng này, và cũng chẳng còn
bao lâu nữa, sẽ đến cái ngày mà tất cả công dân
trong vùng họp nhau lại để đè bẹp chúng ta. James
là một ông già. Ông ta được người trong thành phố
và trong vùng kính trọng. Nếu các anh giết người
này, thì cả nước sẽ báo động, cho đến khi chúng ta
bị tiêu diệt hết mới thôi.
McGinty rống lên:
- Chúng tiêu diệt chúng ta bằng cách nào, thưa
ngài Thỏ Đế? Bằng cảnh sát chăng? Coi nào, một nửa
số cảnh sát ăn lương của chúng ta, nửa kia sợ chúng
ta như sợ cọp. Bằng tòa án chăng? Chúng ta đã thử
nhiều lần rồi đó, hỏi có đi đến đâu không?
291Môn huynh Morris đáp lại:
- Có một “quan tòa” tên là “Lynch” có thể tuyên
án.
- Tôi chỉ cần giơ một ngón tay lên, là có thể đưa
về đây hai trăm người để dọn sạch thành phố này từ
đầu đến cuối! - McGinty nói. Rồi bỗng ông ta chồm
người về phía trước, vầng trán nhăn lại một cách dữ
tợn, nói dằn từng tiếng:
- Nghe đây, môn huynh Morris, tôi theo dõi anh từ
lâu rồi. Bản thân anh không có một chút can đảm
nào, nhưng anh lại cứ cố gắng phá hoại lòng can đảm
ở người khác. Môn huynh Morris, khi nào mà tên anh
được ghi trên chương trình nghị sự, thì ngày ấy sẽ
là một ngày không tốt cho anh.
Morris mặt nhợt nhạt, ngã ngồi xuống ghế, hai đầu
292gối nhũn ra như bông. Ông chìa một tay run rẩy ra
cầm lấy li rượu uống cạn một hơi trước khi trả lời.
- Thưa ngài tôn kính, tôi xin ngài thứ lỗi cho.
Tôi xin tất cả các môn huynh thứ lỗi cho, nếu như
tôi đã quá lời. Tôi là một Hội viên trung thành và
trung thực, tất cả các môn huynh đều biết chính vì
sợ một biến cố có thể xảy ra, nên tôi mới phải phát
biểu ý kiến như vậy. Nhưng tôi tin tưởng ở sự phán
xét sáng suốt của ngài tôn kính, hơn là tin tưởng
ở sự nhận thức của tôi... Tôi xin hứa từ giờ trở
đi, tôi sẽ không bao giờ dám làm phật ý ngài nữa.
Những nếp nhăn trên trán của ngài Toán trưởng giãn
ra.
- Được rồi, môn huynh Morris, tôi sẽ buồn nếu phải
giảng cho anh một bài học, nhưng chừng nào mà tôi
293còn giữ chức vụ, thì chúng ta sẽ giữ vững sự thống
nhất trong chi nhánh về lời nói và việc làm. Và bây
giờ, hỡi các chàng trai...
Ông Toán trưởng nhìn một vòng khắp mặt những người
đứng xung quanh.
- Nếu James lãnh đủ những gì mà hắn đáng nhận, thì
chúng ta sẽ bị phiền nhiễu. Những thằng nhà báo
gắn kết với nhau lắm đấy. Nếu James bị hạ, tất cả
các báo chí ở Hoa Kì sẽ đòi hỏi cảnh sát và quân
đội can thiệp. Vậy các anh chỉ nên cho hắn một lời
cảnh cáo nghiêm khắc mà thôi. Môn huynh Teddy, anh
có thể gánh vác việc này được không?
- Dĩ nhiên là được ạ! - Teddy phấn khởi trả lời.
- Anh cần bao nhiêu người?
- Độ sáu người. Thêm hai nữa để giữ cửa.
294- Tôi đã hứa để cho vị môn huynh mới của chúng ta
được tham dự vào trận ra quân này - McGinty nói.
Teddy nhìn McMurdo với một cặp mắt chứng tỏ hắn
chưa tha thứ một tí gì. Hắn trả lời bằng một giọng
chua như giấm:
- Thì để anh ta đi. Công việc làm xong sớm chừng
nào, hay chừng ấy.
Hội nghị chia tay nhau giữa những tiếng la, hét và
những bài hát say rượu. Quầy rượu bên ngoài vẫn
còn đông khách, nhiều môn huynh cũng sà vào đó.
Toán đi làm nhiệm vụ thì chia nhỏ ra.
Bên ngoài rét cóng. Một mảnh trăng lưỡi liềm le
lói trên bầu trời giá buốt và đầy sao. Các chàng
trai tụ tập trong một mảnh sân đối diện với một tòa
nhà lớn, giữa hai cửa sổ sáng choang có khắc hàng
295chữ vàng “Vermissa Herald”. Bên trong, các máy in
đang chạy đều đều.
Teddy xẵng giọng bảo McMurdo:
- Anh kia, đứng đấy. Anh sẽ ở dưới này canh cửa và
giữ đường thông suốt lúc chúng tôi ra. Còn những
người khác theo tôi. Đừng sợ gì cả.
McMurdo cùng một người khác đứng dưới nhà. Họ nghe
thấy ở tầng lầu một những tiếng thét, tiếng kêu
cứu, tiếng chân người chạy và tiếng đập phá đồ đạc.
Một lát sau, một người tóc hoa râm chạy ra cầu
thang. Nhưng chưa chạy xa được thì đã bị túm lại,
và cặp kính rơi xuống chân McMurdo. Một tiếng người
ngã, tiếp theo là những tiếng rên rỉ. Người đó nằm
sấp, mặt úp xuống. Sáu cây gậy cùng một lúc đánh
tới tấp xuống đất. Đánh chán, một lúc sau, chúng
296mới ngừng tay, Teddy vẫn ra sức đánh vào đầu nạn
nhân. Máu đã chảy ra loang lổ cả vùng tóc bạc.
Teddy cúi xuống định đánh một đòn cuối cùng.
McMurdo nhảy bổ lên gác, gạt hắn ra.
- Mày định giết ông ta à? Thôi đi!
- Cút mẹ mày đi! Mày làm gì thế này, lùi ra!
Hắn giơ cao cây gậy lên. Nhưng McMurdo đã rút
súng, hét lên:
- Nếu mày động đến tao, tao bắn bể đầu mày ngay.
Lúc nãy ông Toán trưởng đã ra lệnh là không được
giết ông James.
Một đứa trong bọn chúng tán thành: - Anh ấy nói
đúng đó!
Người đứng gác dưới nhà gọi vọng lên:
- Thôi nhanh lên. Các anh muốn cả thành phố xông
297ra hay sao?
Đúng là lúc ấy, ở ngoài đường đã nghe thấy nhiều
tiếng người kêu gọi nhốn nháo. Bọn lưu manh chạy
vội xuống và tẩu thoát ra lối cửa. Khi chúng về đến
Hội quán thì một vài đứa lẩn ngay vào đám khách và
thì thào vào tai McGinty. Những đứa khác, trong số
đó có McMurdo thì tản ra trong các ngõ hẻm để về
nhà.
4. THUNG LŨNG KHỦNG KHIẾP
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, McMurdo thấy đầu nhức
như búa bổ. Cánh tay phải nơi dấu sắt nung đỏ in
vào rát bỏng và sưng phồng lên, anh ăn điểm tâm rất
muộn và không ra khỏi nhà. Rồi anh đọc lướt qua tờ
Vermissa Herald. Trong mục Tin giờ chót có đưa
tin:
298“Tòa soạn báo Vermissa Herald, bị tấn công. Chủ
bút bị thương nặng.”
Theo sau là một bài tường thuật ngắn về những sự
việc mà anh biết rõ hơn ai hết. Bài báo kết thúc
như sau:
“Sự việc hiện nay đang được cảnh sát tra xét.
Nhưng người ta cũng không thể hi vọng có kết quả gì
hơn những vụ trước đây. Một số tên côn đồ không
phải là những người xa lạ. Chúng phải được kết tội.
Những bạn hữu rất đông đảo của James sẽ hết sức
vui mừng khi nghe tin tính mạng của ông không bị đe
dọa.”
Dưới bài báo, một mục tin nhỏ thông báo, một đội
canh gác của cảnh sát vùng mỏ được vũ trang bằng
súng, từ nay sẽ bảo vệ tòa soạn.
299McMurdo ném tờ báo xuống và đang đưa một bàn tay
lên đốt thuốc thì có tiếng gõ cửa.
Bà chủ trọ vào đưa cho anh một bức thư mà một đứa
nhỏ vừa cầm đến. Thư không kí tên, viết như sau:
“Tôi muốn nói chuyện với ông, nhưng nói ở bên
ngoài nhà ông. Ông có thể gặp tôi ở cạnh cột cờ
trên đồi Miller. Nếu ông đến ngay bây giờ, tôi sẽ
nói cho ông hay một điều quan trọng đối với ông và
đối với tôi.”
McMurdo đọc đi đọc lại bức thư và không thể đoán
được ai là tác giả. Anh chần chừ suy nghĩ rồi quyết
định phải làm cho sáng tỏ vấn đề.
Đồi Miller là một công viên ở ngay trung tâm thành
phố. Mùa hè có đông người dạo chơi, nhưng mùa đông
thì vắng ngắt. Đứng trên đồi, người ta nhìn thấy
300không những cả thành phố mà cả vùng thung lũng nữa.
McMurdo đi theo con đường dẫn lên một quán ăn, bên
cạnh quán có một cột cờ, và dưới chân cột cờ là
một người đàn ông mũ đội sụp xuống tận mắt, cổ áo
khoác bẻ cao lên. Khi người này quay lại, McMurdo
nhận ra môn huynh Morris. Hai người trao đổi với
nhau nghi thức của Hội.
Ông già ngập ngừng nói như người đang dò dẫm đi
lần từng bước:
- Tôi xin cám ơn ông đã đến.
- Tại sao ông không kí tên dưới bức thư?
- Thưa ông, trong cái thời buổi này, không ai biết
trước được hậu quả của bất cứ một việc gì. Mà cũng
không biết có thể tin cậy được vào ai.
- Dù sao cũng có thể tin cậy được ở các môn huynh
301trong cùng một chi nhánh chứ?
- Không. Không thể tin được. Dù chúng ta có nói
gì, thì tất cả đều đến tai của McGinty cả.
McMurdo nói một cách trang nghiêm:
- Tối hôm qua, tôi thề trung thành với ngài Toán
trưởng. Mà hôm nay ông lại đòi tôi phản bội lời thề
đó hay sao?
Morris buồn rầu nói thều thào:
- Nếu ông nhìn sự việc như vậy, thì thôi, tôi rất
tiếc đã quấy rầy ông. Tình hình đã đi đến chỗ tồi
tệ đến nỗi hai “Người Tự Do” không dám trao đổi
những ý nghĩ của mình với nhau nữa.
McMurdo cảm thấy bớt căng thẳng hơn.
- Tôi là người mới tới đây, tôi không hay biết gì
hết, nếu ông tin rằng việc ông định nói với tôi là
302có ích lợi thì tôi đến đây chính là để nghe ông.
Morris cay đắng tiếp theo:
- Để rồi mách lại tất cả với McGinty. Nhưng
McMurdo vội nói ngay:
- Ông đánh giá tôi không đúng. Tôi trung thành với
chi nhánh Hội. Tôi đã nói dứt khoát với ông như
vậy, nhưng tôi sẽ là một thằng khốn nạn nếu tôi đi
kể lại với một người nào khác những điều ông tâm sự
với tôi. Nhưng ông chớ có chờ mong ở tôi một sự
giúp đỡ hay cảm tình.
- Tối hôm qua tôi có cảm tưởng là ông đang cố dập
theo khuôn mẫu của những tên tệ hại nhất trong cái
băng này. Dù ông có xấu đến đâu đi nữa, thì ông
cũng vẫn là một hội viên mới, lương tâm của ông
chưa bị chai cứng lại. Vì vậy mà tôi muốn nói
303chuyện với ông.
- Ông định nói gì với tôi?
- Khi ông gia nhập Hội ở Chicago, và khi ông tuyên
thệ giữ lòng nhân ái, trung thành thì có bao giờ
ông nghĩ rằng, điều đó sẽ dẫn ông đến tội ác không?
- Hãy giả thiết đó là một tội ác.
Morris la lên, giọng nói xúc động:
- Hãy giả thiết à?... Mới tối hôm qua đây thôi,
đánh một người già bằng tuối bố tôi, như thế có
phải là tội ác không? Nếu ông cho rằng đó không
phải là tội ác, thì là cái gì vậy?
- Có người nói đó là chiến tranh. Chiến tranh giữa
hai giai cấp. Một cuộc chiến tranh tốc lực, không
khoan nhượng.
304- Thế khi ông xin gia nhập “Hội những Người Tự Do”
ở Chicago, lúc đó ông có nghĩ đến cuộc chiến tranh
ấy không?
- Không, lúc đó tôi không nghĩ như thế.
- Tôi cũng vậy, khi tôi gia nhập Hội ở
Philadelphia, Hội chỉ đơn giản là một hội ái hữu
tương tế, một nơi đến để gặp gỡ bạn bè. Rồi tôi
nghe nói đến vùng này. Tôi dọn đến đây với dự tính
cải thiện hoàn cảnh của tôi. Vợ tôi và ba con tôi
cũng theo tôi. Tôi mở một cửa hàng bán vải ở phố
chợ và phát đạt lên. Rồi người ta biết tôi là một
hội viên “Hội những Người Tự Do”, thế là tôi bắt
buộc phải gia nhập vào chi nhánh ở địa phương. Tôi
cũng có cái dấu hiệu ô nhục này trên cánh tay, và
một cái gì còn tệ hại hơn nữa in bằng sắt nung đỏ
305vào tim. Tôi có thể làm gì được? Tất cả những gì
tôi nói ra để hòng sửa chữa tình trạng này, đều bị
coi như một sự phản bội. Tôi không thể chạy trốn đi
khỏi nơi này: Tất cả của cải của tôi là nằm trong
cửa hàng. Nếu tôi xin ra khỏi Hội, thì đó là tự kí
vào bản án tử hình, rồi còn vợ và các con tôi.
Morris úp mặt vào hai bàn tay và cả người đều run
lên trong những tiếng khóc nức nở.
- Ông quá mềm yếu đối với trò chơi này. Hoàn toàn
không phải loại người thích hợp...
- Trước đây tôi có một lương tâm và một tôn giáo.
Chúng đã biến tôi thành một tên tội phạm, tôi đã bị
chỉ định vào một vụ án mạng. Nếu tôi từ chối, tôi
biết cái gì sẽ chờ đợi tôi. Tôi đã tham gia vào vụ
án đó. Đó là một căn nhà hẻo lánh, ở cách đây ba
306mươi cây số ở bên kia núi. Chúng cũng đặt tôi ngoài
cửa như ông đêm hôm qua. Và khi trở ra, thì tay
chúng đầy máu. Chúng tôi bỏ đi, nhưng đằng sau tôi
có một đứa trẻ la hét. Đó là một đứa bé trai,
khoảng lên năm, vừa chứng kiến bố nó bị giết ngay
trước mắt nó. Tôi muốn ngất đi vì khủng khiếp,
nhưng tôi vẫn giữ nụ cười trên môi, vì nếu không
thì lần sau, chúng sẽ từ nhà tôi trở ra với các bàn
tay đầy máu. Khi biết tôi là một hội viên, vị thầy
tu không muốn nghe tôi nói nữa. Tôi bị rút phép
thông công. Đó là tình trạng của tôi bây giờ. Thế
mà tôi thấy ông cũng đang trượt xuống cái dốc đó.
Ông có sẵn sàng trở thành một tên giết người như
chúng không, hay chúng ta có thể làm được một cái
gì để ngăn chặn bọn chúng lại?
307- Thế ông định tố cáo chăng?
- Ai mà dám làm một việc như vậy. Chỉ nghĩ trong
đầu thôi cũng đã đủ mất mạng rồi.
- Được. Tôi thấy ông nghĩ ngợi quá nhiều.
- Ông hãy nhìn cái thung lũng này. Ông có thấy
những đám mây tỏa ra từ hàng trăm ống khói đang bao
phủ lên nó không? Những đám mây tội ác còn nặng nề
gấp hàng trăm lần đang bao phủ trên những người
dân. Đây là thung lũng của sự khủng khiếp.
- Thôi được, để khi nào tôi thấy nhiều hơn, tôi sẽ
nói cho ông biết tôi nghĩ gì. Nhưng có một điều
chắc chắn là ông nên dẹp cái cửa hàng của ông đi,
càng sớm càng tốt. Những điều ông nói với tôi chỉ
hai người, tôi với ông biết mà thôi. Nhưng, nếu tôi
nghĩ rằng ông là một người chỉ điểm...
308- Không!
- Thế thì thôi, ta ngừng lại ở đây. Tôi tin rằng
ông đã nói với tôi vì có ý tốt. Bây giờ, tôi đi về
đây.
- Xin ông cho tôi nói với ông một điều nữa trước
khi ông về.
- Rất có thể là có người trông thấy chúng ta đứng
đây, và người ta muốn biết chúng ta đã nói gì với
nhau.
- Ồ! Đúng thế!
- Ông sẽ nói rằng tôi muốn mời ông vào làm công
trong cửa hàng của tôi.
- Và tôi từ chối. Thôi môn huynh Morris, thế nhé,
một ngày khác ta lại gặp nhau.
Buổi chiều hôm đó, trong lúc McMurdo đang ngồi hút
309thuốc và tư lự bên cạnh lò sưởi thì cửa mở, và
trên khung cửa hiện lên cái bóng to tướng của
McGinty. Hắn làm dấu hiệu chào của Hội rồi đến ngồi
trước mặt McMurdo và nhìn anh trân trân không chớp
mắt. Cái nhìn đó đã được đáp lại bởi một cái nhìn
cũng không kém cường độ.
Một lát sau, McGinty mới nói:
- Tôi đến đây, không phải là để thăm anh, mà để
xác định với anh một việc.
McMurdo tỏ vẻ rất hân hoan về việc tới thăm bất
ngờ này. Anh đứng dậy, ra mở tủ lấy một chai rượu.
- Thưa ông Hội đồng, tôi vui mừng được đón tiếp
ông. Tôi không ngờ lại có vinh dự này.
- Cái tay thế nào?
McMurdo nhăn mặt:
310- Tôi sẽ không thể nào quên được. Những việc đó
đáng ghi nhớ lắm.
- Đúng. Thật đáng ghi nhớ đối với những người
trung thành, những người hết lòng với Hội. Sáng nay
anh nói gì với Morris?
Câu hỏi đã được đặt ra một cách hết sức đột ngột
cho nên phải trả lời ngay. McMurdo phá lên cười
ngặt nghẽo:
- Morris không biết rằng tôi có thể làm ăn ở đây,
ngay trong nhà này thôi. Mà cũng không nên để cho
hắn biết, vì tôi thấy hắn thắc mắc nhiều quá. Nhưng
hắn là một lão già tốt bụng. Hắn tưởng tôi không
có công ăn việc làm, nên muốn mời tôi về làm công
trong cửa hàng bán vải.
- Ồ. Ra thế đấy.
311- Vâng.
- Thế anh đã từ chối chứ?
- Dĩ nhiên. Tôi có thể kiếm được gấp mười lần thế
với bốn giờ làm việc.
- Đúng thế. Nhưng nếu tôi là anh, tôi sẽ không đi
lại với Morris.
- Sao thế?
- Bởi vì tôi bảo anh là không nên đến, giải thích
thế là đủ rồi.
- Có lẽ đối với phần đông những người khác thì đủ
đấy, nhưng đối với tôi thì chưa đủ đâu. Nếu ông là
một người biết người biết của, thì ông phải hiểu
điều đó.
McGinty như nhìn đóng đinh vào mặt McMurdo. bàn
tay hắn bóp chặt li rượu. Nhưng rồi hắn lại bật
312cười.- Đúng, anh không phải là một loại người bình
thường. Anh muốn biết lí do tại sao không nên đi
lại với Morris phải không? Được. Thế Morris có nói
gì chống lại chi Hội không?
- Không.
- Có nói gì chống lại tôi không?
- Không.
- À. Vậy là hắn không tin anh. Hắn không phải là
một người trung thành. Chúng tôi biết rõ hắn, và
vẫn theo dõi hắn để chờ lúc nào đó sẽ cho hắn một
bài học xứng đáng. Trong đàn cừu, không thể để một
con cừu ghẻ lở như vậy được. Nếu anh đi lại với một
tên phản bội, thì chúng tôi có thể nghĩ rằng anh
cũng là một tên phản bội. Anh có thấy như vậy
không?
313- Tôi không thể nào gắn bó với hắn được, vì tôi
không thích loại người như hắn. Còn cái chữ “phản
bội” ông vừa gắn cho tôi, nếu là một người khác thì
anh ta sẽ không nói được đến lần thứ hai nữa đâu.
McGinty uống cạn li rượu:
- Đủ rồi đó. Tôi đến để cho anh một lời khuyên.
Anh đã nghe lời khuyên đó rồi. Thế là xong.
- Tôi muốn biết, ông làm cách nào mà biết được
rằng tôi đã nói chuyện với Morris?
McGinty mỉm cười:
- Đừng bao giờ quên rằng, cuối cùng rồi tôi cũng
sẽ biết tất cả mọi việc. Thôi, đến giờ rồi, và...
Vừa lúc McGinty đứng lên định đi, thì hai cánh cửa
bị đẩy mạnh, bật tung ra, và ba cái đầu đội mũ
lưỡi trai của cảnh sát chăm chăm nhìn hai người.
314McMurdo vùng đứng dậy, định rút súng ra nhưng hai
khẩu súng đã chĩa thẳng vào anh. Anh thả tay xuống.
Một người mặc binh phục bước vào.
Đại úy Marvin ngúc ngắc cái đầu và mỉm cười nhìn
McMurdo.- Tôi vẫn nghĩ rằng thế nào rồi ngài cũng
giở trò mà, ngài lưu manh McMurdo. Thôi lấy mũ đội
vào, rồi đi theo tôi.
McGinty can thiệp:
- Đại úy sẽ phải trả giá về cái trò bông đùa này.
Sao ông dám tự tiện xông vào nhà người ta để dọa
nạt những người lương thiện?
- Ông Hội đồng, ông không dính đến chuyện này.
Chúng tôi chỉ có chuyện đối với tên McMurdo này
thôi.
- Đây là một người bạn của tôi, và tôi bảo lãnh
315cho anh ta về những hành vi của anh ấy.
- Theo tất cả những điều người ta nói về ông, thì
rồi một ngày nào đó, chính ông, ông cũng sẽ phải
trả lời trước pháp luật... Tên này là một tên lưu
manh trước khi đến đây. Hiện nay hắn cũng vẫn là
một thằng lưu manh. Thượng sĩ, hãy chĩa súng vào
hắn trong khi tôi tước vũ khí của hắn.
McMurdo lạnh lùng nói:
- Đây, súng của tôi đây.
- Trát bắt người của ông đâu? Tôi xin thề là ông
sẽ biết tay tôi!
- McGinty đe dọa.
- Ông cứ hành động.
- Tôi bị buộc tội gì? - McMurdo hỏi.
- Dính líu vào vụ hành hung ở tòa soạn báo
316Vermissa Herald.
McGinty vừa cười vừa nói:
- Người này tối hôm qua ở trong quán rượu của tôi.
Anh ta đánh bài mãi đến nửa đêm mới ra về. Tôi có
cả tá những người làm chứng có thể xác nhận việc
này.
- Đó là việc của ông. Ngày mai ông sẽ trình bày
trước tòa. McMurdo, đi thôi!
McGinty cố thu xếp để nói riêng với McMurdo mấy
câu trước khi anh bị dẫn đi.
- Thế còn cái?...
McGinty giơ một ngón tay lên để ám chỉ cái máy dập
đô-la. McMurdo đã giấu kĩ nó dưới sàn nhà nên trả
lời:- Yên trí.
- Chúng ta sẽ sớm gặp nhau thôi. Tôi đi tìm thầy
317cãi. Chúng sẽ không giữ được anh lâu đâu.
Đại úy Marvin xen vào:
- Thượng sĩ, ông hãy canh gác kĩ tên tù này, và
cho phép ông bắn bỏ nếu hắn định giở trò gì ra, tôi
đi khám buồng của hắn.
Người sĩ quan không tìm thấy cái máy làm bạc giả.
Khi ở trên lầu xuống, anh ta ra lệnh dẫn McMurdo về
đồn. Trời đã tối, gió thổi lạnh lẽo, đường sá vắng
tanh. Chỉ có một vài người hiếu sự đi theo, và
được bóng tối làm cho bạo dạn hơn, đã chửi bới tên
tù đang bị dẫn đi.
- Hãy đánh chết cái thằng “Tiên Phong” này đi!
Đánh chết đi!
Họ cười đùa và nói khôi hài khi thấy cả đám bước
vào trong đồn cảnh sát. Sau khi bị hỏi cung chiếu
318lệ, McMurdo bị dẫn tới một phòng giam. Anh gặp lại
ở đây tên Teddy và ba tên tội phạm khác.
Nhưng ngay ở trong bức thành trì của luật pháp
này, bàn tay dài ngoằng của “Những Người Tự Do”
cũng vẫn vươn tới được. Một người cai ngục mang rơm
vào để chúng rải xuống sàn ngủ cho ấm. Chúng moi
từ bó rơm ra hai chai rượu, mấy cái li và một cỗ
bài.
Chúng đã qua một đêm vui vẻ, không cảm thấy có một
chút nào lo sợ đối với vụ xử án ngày hôm sau.
Tại tòa, trước những chứng cớ đưa ra, vị quan tòa
đành chịu không thể tuyên án. Những người thợ nhà
in công nhận rằng ánh sáng lúc đó nhập nhèm. Bản
thân họ cũng không được tỉnh trí, nên họ ở trong
tình trạng rất khó nói dứt khoát về nhận dạng của
319những tên côn đồ... Đến khi họ bị ông luật sư hỏi
vặn lại, thì họ lại càng ấp úng hơn nữa. Nạn nhân
cũng đã khai rằng, ông ta bị tấn công quá đột ngột
nên không thể xác định được điều gì, ngoài việc mấy
tên đánh đầu tiên vào ông có bộ râu mép. Ông nói
thêm rằng, bọn chúng chỉ là “Những Người Tiên
Phong” thôi, vì ông ta không có ai khác là kẻ thù
trong thành phố.
Mặt khác, những lời làm chứng quả quyết của sáu
công dân, trong số đó có McGinty đã chứng minh
rằng, những người bị buộc tội ở đây đã đánh bài tại
Hội quán đến tận một thời điểm sau vụ hành hung
rất nhiều.
Chúng đã được tha bổng. Đại úy Marvin và ngành
cảnh sát bị khiển trách.
3205. GIỜ ĐEN TỐI NHẤT
Sau phiên toà, McMurdo càng nổi tiếng hơn. Những
huynh trưởng trong chi nhánh bảo nhau: “Không ai có
thể thay thế anh ta được khi có những vụ gay go”.
McGinty cũng công nhận rằng, McMurdo là cánh tay
đắc lực nhất. Hắn có cảm giác là đang nắm ở trong
tay một con chó săn cực kì hung ác. Tất nhiên để
làm những việc lặt vặt thì hắn không thiếu những
con chó con, nhưng nhìn xa trông rộng, hắn đã thấy
được cái ngày mà hắn phải xua con chó dữ tợn này
vào một con mồi xứng đáng với nó kia. Một vài môn
huynh trong chi Hội, trong đó có Teddy đã đem lòng
ghen tức, nhưng thầm lặng trong bụng thôi.
Nếu McMurdo đã chiếm được cảm tình của các bạn
hữu, thì ở một nơi khác, anh lại mất hết. Bố của cô
321Ettie không muốn trông thấy mặt anh nữa, và cũng
không cho anh bước chân vào nhà nữa. Ettie thì
không từ bỏ anh được, nhưng cô cũng tỉnh táo suy
nghĩ về những hậu quả của một cuộc hôn nhân với một
kẻ bị mọi người coi như một tên tội phạm. Một buổi
sáng, cô quyết định đi tìm gặp anh, cố gắng kéo
anh ra khỏi những ảnh hưởng độc hại đang hút anh ta
xuống vực thẳm.
McMurdo đang ngồi trước bàn, quay lưng ra ngoài,
trước mặt có một bức thư. Một ý nghĩ tinh nghịch
thoáng qua đầu óc cô bé mười chín tuổi này. Anh
không nghe thấy cô mở cửa, nên cô nhón gót yên lặng
đi đến sau lưng, nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai
anh.
Anh ta nhảy chồm lên như một con hổ, tay phải thì
322nắm lấy cổ cô, tay kia thì vò nát bức thư để trước
mặt. Lúc đó anh mới kịp nhìn ra cô. Thêm sự ngạc
nhiên và niềm vui tràn ngập đến thay sự hung bạo.
Nhưng, sự hung bạo đã làm cô khiếp đảm, phải lùi
mãi đến bức tường phía sau lưng.
McMurdo vừa lau mồ hôi trán vừa nói:
- Em đấy à, lại đây, em yêu... - McMurdo dang rộng
hai tay ra phía trước:
- Bắt đền anh đấy!
Ettie vẫn còn bàng hoàng vì nét mặt của McMurdo mà
cô vừa phát hiện: Tất cả linh tính của phụ nữ đã
mách bảo cho cô biết rằng, đó không phải là sự sợ
hãi bình thường của một người bị bất ngờ. Không! Rõ
ràng là sự sợ hãi của một người có tội. Cô la lên:
323
- Anh làm sao thế! Tại sao anh lại sợ em đến như
vậy?
- Anh đang mải suy nghĩ về hàng trăm việc thì em
đến nhẹ nhàng quá, như những bước chân của một nàng
tiên. Không. Có cái gì hơn thế nữa kia.
Một thoáng nghi ngờ xuyên qua tâm trí cô:
- Hãy đưa cho em đọc cái thư anh đang viết đó.
- Anh không thể đưa em đọc được.
- Anh viết thư cho một người đàn bà khác rồi. Nếu
không, tại sao anh lại không đưa cho em coi?
- Anh chưa có vợ, anh thề trên thánh giá.
- Thế tại sao anh không cho em coi thư?
- Anh đã có lời thề với những người khác là sẽ
không cho ai đọc bức thư đó, anh cũng không muốn
phản bội những người đã tin anh, như anh không muốn
324phản bội em. Đây là một công việc của chi nhánh
Hội, một công việc bí mật, ngay cả đối với em nữa.
Và anh hoảng sợ vì tưởng đó là bàn tay của cảnh
sát...
Ettie tin lời McMurdo. Những chiếc hôn nồng cháy
của anh đã xóa sạch hết sợ hãi và nghi ngờ.
- Em hãy đến ngồi bên cạnh anh. Đây là một cái
ngai vàng thật không xứng đáng với một nữ hoàng như
em.
- Làm sao có thể yên tâm được khi biết rằng anh đã
nhập bọn với một lũ tội phạm.
- Hãy tin anh, anh không đến nỗi xấu xa như em
tưởng đâu. Bọn anh chỉ là những người đáng thương
đang cố sức, theo cách riêng của mình, bắt người
khác phải tôn trọng những quyền lợi của mình.
325Ettie quàng hai tay vào cổ người yêu:
- Hãy bỏ hết đi anh! Vì tình yêu, hãy bỏ hết đi!
McMurdo ôm chặt cô vào lòng.
- Làm sao anh có thể bỏ được, vì như thế là anh sẽ
phản bội và bỏ rơi bạn hữu. Mà cho dù bây giờ anh
có muốn bỏ đi nữa thì cũng không thể được. Không
bao giờ chi nhánh Hội lại để cho một Hội viên rời
bỏ, mang theo tất cả những bí mật của Hội.
- Em đã lo trước tất cả rồi. Ba có một ít tiền để
dành. Ba cũng ngán nơi này lắm rồi. Em sẵn sàng đi
nơi khác. Ở đó, chúng ta sẽ được an toàn.
McMurdo bật cười:
- Chi nhánh Hội có cánh tay dài lắm. Em tưởng bọn
chúng không thể với tay từ đây tới Philadelphia hay
New York sao?
326- Thì chúng ta đi về miền Tây, đi sang Anh, sang
Thuỵ Điển; đi bất kì đâu cũng được, miễn là ra khỏi
cái “Thung lũng khủng khiếp” này.
McMurdo chợt nghĩ đến môn huynh Morris:
- Đây là lần thứ hai anh nghe nói đến cái tên
“Thung lũng khủng khiếp” đó.
- Anh tưởng rằng Teddy đã tha chúng ta à? Nếu hắn
không sợ anh, thì hắn đã tiêu diệt chúng ta rồi.
Mỗi lần gặp hắn, chỉ cần nhìn đôi mắt hổ đói của
hắn là em phát run lên.
- Nếu mà anh bắt được những lúc đó, anh sẽ dạy cho
hắn biết lễ phép. Nhưng em gái bé bỏng! Anh không
thể đi khỏi nơi đây được. Nhưng anh sẽ tìm cách
thoát khỏi sự việc này một cách có danh dự.
- Không có danh dự trong một việc như thế này đâu.
327
- Trong vòng sáu tháng, anh sẽ tìm cách đi khỏi
nơi đây mà không phải xấu hổ khi nhìn mặt người
khác.
- Sáu tháng à? Chắc chắn nhé.
- Có thể là bảy, tám tháng, nhưng tối đa là trước
một năm.
Ettie không thể đòi hỏi thêm được. Cô ra về. Kể từ
khi McMurdo bước vào cuộc đời cô, chưa bao giờ cô
thấy trong lòng vui vẻ, nhẹ nhàng như hôm nay.
McMurdo tưởng rằng khi mình đã là một Hội viên
thực thụ, thì anh có thể biết được tất cả những
hoạt động của Hội, nhưng chẳng bao lâu sau, anh
khám phá ra rằng, tổ chức này rộng lớn và phức tạp
hơn một chi nhánh rất nhiều. Chính McGinty cũng có
328nhiều chuyện không biết, vì có một vị chức sắc cao
cấp hơn gọi là ủy nhiệm vùng, đóng ở phía dưới
đường xe lửa, có toàn quyền đối với nhiều chi
nhánh.
McMurdo có gặp hắn một lần. Trông hắn như một con
chuột chù, dáng đi thì thậm thà thậm thụt, đôi mắt
gian giảo chuyên nhìn ngang. Tên hắn là Evans Pott.
Một hôm, Scanlan - người bạn cùng trọ với McMurdo,
nhận được mấy chữ của McGinty kèm theo một lá thư
của Evans. Ông “Đại vương” báo cho McGinty biết
rằng, ông ta phái đến Vermissa hai người tên là
Lawler và Andrews, với đầy đủ chỉ thị để hoạt động
trong vùng. Và ông Toán trưởng phải chịu trách
nhiệm bố trí cho hai người đó được ăn, ở chu đáo
cho đến giờ hành sự. McGinty viết thêm cho Scanlan
329là ông sẽ biết ơn Scanlan và McMurdo nếu hai vị này
thu xếp để cho họ tới nhà trọ của bà quả phụ
McNamara.
Họ đến ngay chiều hôm đó, mỗi người mang theo một
cái bọc. Lawler là một người đứng tuổi, nét mặt
khắc khổ, ít nói và dè dặt, có dáng của một tay đi
giảng đạo rong. Andrews thì giống như một đứa trẻ
mới lớn lên, mặt mũi cởi mở, vui vẻ, không khác gì
một cậu học sinh đi nghỉ hè. Cả hai chỉ uống nước
lã, nhưng đều là những tên giết người có hạng.
Lawler đã thực hiện mười bảy vụ, Andrews ba vụ.
Chúng kể lại những thành tích cũ của chúng với một
thứ kiêu hãnh giống như những người đã làm được
nhiều việc tốt đẹp cho tập thể. Nhưng khi hỏi đến
công việc chúng sắp làm, thì chúng lại tỏ ra kín
330đáo.
- Chúng tôi đã được chọn đi, vì cả tôi lẫn thằng
bé không ai biết uống rượu, vì thế chúng tôi sẽ
không nhỡ mồm nhỡ miệng. Vậy các anh đừng giận
chúng tôi, đó là vì phải tuân theo lệnh ngài ủy
nhiệm vùng - Lawler giải thích.
- Dĩ nhiên rồi.
McMurdo vừa chửi thề vừa nói:
- Ở trong vùng này có gần nửa tá những đứa mà tôi
sẵn sàng cho đi mò giun. Không biết có phải thằng
Jack Knox là mục tiêu của các anh không? Tôi muốn
trả giá rất đắt để được thấy nó lãnh đủ những gì mà
nó đáng được nhận.
- Không. Không phải nó đâu.
- Hay là thằng Herman Strauss?
331- Cũng không phải nó.
- Ồ, thôi, chúng tôi không thể bắt buộc các anh
nói được. Nhưng mà đối với tôi nó ngứa ngáy chân
tay thế nào ấy.
Một buổi sáng, còn sớm lắm, McMurdo nghe thấy hai
thằng nhón gót bước nhẹ xuống cầu thang, anh vội
đánh thức Scanlan dậy và hai người nhanh chóng mặc
áo. Khi họ xuống đến nhà dưới thì thấy cửa mở và
hai thằng đi trước họ không xa. Họ liền thận trọng
bước theo.
Nhà trọ ở vùng gần ven thành phố, đi một lát thì
đến một ngã tư ở giữa nông thôn. Có ba người đã chờ
sẵn ở đó. Lawler và Andrews đứng nói chuyện với
chúng một lát, rồi cả bọn lại kéo nhau đi. Từ chỗ
đó có nhiều con đường dẫn đến những mỏ khác nhau.
332Bọn chúng đi vào con đường dẫn đến đồi Crow là một
cái mỏ lớn của Josiah H. Dunn, người xứ New
England.
Bấy giờ trời đã sáng rõ. Thợ thuyền đang vội vã đi
làm, hoặc đi lẻ tẻ, hoặc nhập lại thành từng nhóm.
McMurdo và Scanlan đi lẫn vào với họ. Sương mù dày
đặc bao phủ tất cả. Một hồi còi xé tan bầu không
khí: Đó là hiệu lệnh mười phút trước khi những
thang máy đưa thợ xuống hầm mỏ.
Khi họ đến khoảng trống trước miệng giếng xuống mỏ
thì ở đó có khoảng một trăm thợ mỏ đang đứng đợi,
vừa đập chân vừa thổi các ngón tay cho đỡ rét. Bọn
hung thủ đứng túm lại trong bóng tối của nhà máy.
Scanlan và McMurdo trèo lên một đống xỉ than để có
thể nhìn rõ quang cảnh. Họ nhận ra kĩ sư mỏ tên là
333Menzies từ trong nhà máy đi ra, thổi một tiếng còi
để ra lệnh cho thang máy xuống hầm. Vừa lúc đó, một
người trẻ tuổi, cao lêu nghêu, tiến lại gần miệng
giếng. Anh ta trông thấy đám người im lặng cạnh nhà
máy, mũ đội sụp xuống thấp, cổ áo thì kéo lên che
kín cả mặt. Anh ta hướng về những người lạ mặt khả
nghi và lớn tiếng hỏi:
- Các anh là ai? Tại sao lại vào đây làm gì?
Không có tiếng trả lời. Chỉ có thằng Andrews tiến
lên một bước và bắn một phát vào bụng người đó. Cả
trăm người thợ như vừa bị tê liệt hẳn. Người giám
đốc mỏ ấn hai tay vào vết thương ở bụng và gập đôi
người lại, chuệnh choạng định chạy đi, nhưng một
phát đạn nữa đã làm anh ta ngã nghiêng xuống, tay
chân quờ quạng trên mặt đất. Kĩ sư Menzies hét lên
334một tiếng, tay cầm mỏ lết xông vào, nhưng anh cũng
lãnh hai viên đạn và chết ngay dưới chân chúng. Lúc
đó, đám đông thợ mỏ mới rùng rùng lên như một cơn
sóng. Một vài người xông về phía bọn sát nhân.
Nhưng hai khẩu súng bắn chỉ thiên như trút đạn phía
trên đầu họ. Thế là mọi người đứng sững lại, rồi
lùi dần và bắt đầu tản ra. Một số chạy thẳng về
nhà. Khi những người dũng cảm nhất tập hợp lại được
và chạy tới nhà máy, thì bọn sát nhân đã biến mất
trong đám sương mù.
Scanlan và McMurdo trở về nhà trọ. Scanlan có vẻ
buồn rầu, McMurdo im lặng suy nghĩ.
Tối hôm đó, có một buổi ăn mừng lớn ở chi nhánh
Hội. Không những ăn mừng vụ ám sát người giám đốc
và người kĩ sư mỏ ở đồi Crow, mà còn để ăn mừng một
335thắng lợi khác mà chi nhánh đã thực hiện được ở
một nơi xa đây. Hóa ra là khi Evans cử hai người
xuống chỗ Vermissa, thì đồng thời hắn cũng đòi hỏi
Vermissa phải bí mật cử ba người lên trước hắn để
thủ tiêu William Hales, một trong những người chủ
mẫu mực. Anh ta chỉ có cái tội là cứ thích có năng
suất cao trong công việc nên đã đuổi một số tên sâu
rượu và lười biếng, mà những tên này lại là hội
viên của Hội.
Bản án được thi hành xong. Teddy hãnh diện ngồi
chễm chệ trên ghế danh dự bên phải ông Toán trưởng.
Bộ mặt đỏ dừ, hai con mắt đỏ sọc máu, chứng tỏ hắn
vừa qua một đêm trắng và uống nhiều rượu. Chúng đã
rình nạn nhân trong khi người này đi về nhà vào
buổi tối. Chúng phục trên đỉnh một quả đồi, đường
336đi gập ghềnh nên bắt buộc ngựa phải đi bước một.
Nạn nhân mặc nhiều áo để chống rét quá nên không
rút súng ra kịp. Cái xác đẫm máu được vứt lại trong
đống tuyết để làm một lời cảnh cáo cho tất cả các
ông chủ có trái tim sắt đá.
Đó là một ngày trọng đại cho tất cả những “Người
Tiên Phong”. Bóng tối đè nặng hơn nữa lên “Thung
lũng khủng khiếp”. McGinty đã nghĩ đến một trận tấn
công mới, chống lại những kẻ thù của ông ta. Đêm
hôm đó, khi mọi người đã say sưa chia tay nhau ra
về, ông ta ngoắc McMurdo lại và đưa anh ta vào căn
phòng gặp nhau lần đầu tiên.
- Hãy nghe đây. Bây giờ tôi mới có một công việc
xứng đáng với anh.
- Tôi hãnh diện vì đã được ông chọn lựa.
337- Chúng tôi không thể nào yên tâm chừng nào vụ
Chester Wilcox chưa được giải quyết xong.
- Hắn là ai vậy? Hắn ở đâu?
McGinty bỏ điếu xì-gà xuống, xé ở sổ tay ra một tờ
giấy, trên có vẽ một bản lược đồ.
- Hắn là thằng đốc công chính của công ty thép
Dike, cựu thượng sĩ, đã có đi đánh trận về. Chúng
ta đã hai lần định hạ hắn, nhưng không được may mắn
và Jim đã bị hắn hạ lại. Đây, nhà hắn đây, ở trơ
trơ một mình tại ngã tư của công ty. Không nên đi
đến đó ban ngày, hắn có vũ khí bắn nhanh và bắn
giỏi. Nhưng ban đêm...
Tóm lại, hắn ở đó với vợ, ba đứa con và một người
đầy tớ gái. Nếu đặt một gói chất nổ ở cửa nhà hắn
với một cái ngòi, thì xong hết mọi chuyện.
338- Người này đã làm gì?
- Hắn đã giết Jim.
- Tại sao hắn giết Jim?
- Một buổi tối, Jim đi vào khu vực quanh nhà hắn,
thế là hắn giết thôi.
- Ở đó có hai người đàn bà và ba đứa trẻ con. Có
cần phải cho tất cả bọn này bay lên trời không?
- Tất nhiên rồi.
- Nhưng vợ con hắn có tội gì đâu?
- Anh xì hơi rồi hay sao?
- Hãy bình tĩnh, ông Hội đồng. Tôi đã từ chối đâu.
- Thế anh có thi hành lệnh không?
- Tất nhiên.
- Bao giờ?
339- Xin ông cho tôi một hay hai đêm, để tôi dò địa
điểm cái nhà hắn và lập một kế hoạch.
McGinty chìa tay ra bắt tay McMurdo.
- Tôi trông cậy ở anh. Cái đòn cuối cùng này sẽ
bắt chúng nó phải quỳ gối hết.
Ngay đêm hôm ấy, một mình McMurdo đến đấy để
nghiên cứu địa hình. Mãi sáng bạch hôm sau mới trở
về. Ngày hôm sau, anh hội ý với hai người trợ thủ.
Ngày hôm sau nữa, cả ba người tụ họp ở ngoài thành
phố, mang theo đầy đủ vũ khí. Một đứa mang theo một
cái bọc đựng đầy thuốc nổ. Khoảng 2 giờ sáng thì
cả bọn đến trước nhà Wilcox. Hôm ấy gió rất to. Mây
bay như chạy dưới một mảnh trăng hạ huyền. Họ đã
được báo trước là phải đề phòng những con chó giữ
nhà nên rất thận trọng tiến lại gần. Nhưng không
340thấy có tiếng động nào khác ngoài tiếng gió rít và
tiếng cây lá xào xạc. McMurdo ghé sát tay vào cửa
nghe, không thấy có động tĩnh gì bên trong. Anh đặt
gói thuốc nổ vào sát cửa, lấy dao thọc một lỗ và
buộc ngòi vào. Sau khi anh đã châm ngòi, cả bọn vắt
chân lên cổ mà chạy, được một quãng, vừa nằm rạp
xuống một cái rãnh, thì nghe thấy tiếng nổ long
trời lở đất, và căn nhà nọ sụp xuống. Công việc đã
hoàn thành. Chưa bao giờ một sự thành công trọn vẹn
như vậy được ghi nhận trong lịch sử biên niên Hội.
Nhưng than ôi! Bọc thuốc nổ chỉ làm sụp đổ một căn
nhà rỗng không, và người thượng sĩ già vẫn tiếp
tục giữ vững trật tự trong các mỏ của công ty Dike.
McMurdo vẻ bực tức lắm. Anh nói: - Tôi thề là tôi
341sẽ hạ được hắn.
Toàn thể chi nhánh bỏ phiếu biểu quyết tín nhiệm
anh. Rồi vụ Wilcox cũng nguôi ngoai đi. Nhưng vài
tuần lễ sau, khi báo chí đăng tin Wilcox đã phải
đấu súng trong một vụ phục kích, thì ai cũng hiểu
rằng, đó là McMurdo quyết tâm hoàn thành một công
việc còn dang dở.
Đó! “Hội những Người Tự Do” đã lũng đoạn cả một
vùng bằng sự khủng bố.
Bóng tối trùm kín thung lũng khủng khiếp.
Rồi mùa xuân đến với những bông hoa tươi thắm và
tiếng hát của các con suối. Thiên nhiên bị bàn tay
nặng nề của mùa đông giam giữ nay đã trỗi dậy.
Nhưng không ở đâu đó có một tia hi vọng nào, cho
những người đàn ông và đàn bà bị khống chế trong sự
342khủng bố. Trên đầu họ chưa bao giờ có những đám
mây dày đặc sự đen tối và hãi hùng như vào đầu mùa
hạ năm 1875 này.
6. NGUY HIỂM
McMurdo đã được tôn lên địa vị của một phụ tá
trong Hội. Anh đã trở thành tối cần thiết trong các
buổi họp của Hội. Nhưng anh càng nổi tiếng giữa
đám Người Tự Do bao nhiêu thì khi ra ngoài đường
phố ở Vermissa, anh càng phải chịu đựng những cái
nhìn có ngụ ý bấy nhiêu. Mặc dù vẫn khiếp sợ, nhưng
những người dân ở Vermissa bây giờ đã bắt đầu hợp
đoàn với nhau. Chi nhánh đã biết tin là có những
cuộc họp bí mật được triệu tập tại tòa soạn báo
Vermissa Herald, và những người bảo vệ pháp luật đã
được phát đầy đủ những tin tức này. “Chúng cậy
343đông người, gan lì và vũ trang tốt. Địch thủ của
chúng thì tản mạn, lại không có thế lực.” Đó là ý
kiến đánh giá của McGinty, của McMurdo và của những
tay cứng khác trong chi nhánh.
Một buổi tối thứ Bảy của tháng 5, theo thường lệ,
chi nhánh họp ở nhà Hội quán, McMurdo đang sửa soạn
sắp đi, thì môn huynh Morris chợt đến tìm anh với
vừng trán lo âu, đôi mắt hoảng hốt.
- Tôi có thể nói chuyện tự do với ông được không,
ông McMurdo?
- Dĩ nhiên.
- Tôi không quên rằng, đã có lần tôi trút cả bầu
tâm sự với ông, và ông đã giữ kín cho tôi.
- Nhưng sự yên lặng của tôi không có nghĩa là một
sự tán thành những ý nghĩ của ông.
344- Tôi biết. Nhưng tôi có một điều bí mật ở đây...
Ông ta để một tay lên ngực.
- Một bí mật ngày đêm gặm nhấm tim tôi. Nếu tôi
nói nó ra, thì chắc chắn nó sẽ gây thêm một vụ án
mạng nữa. Nhưng nếu không nói, thì nó sẽ là hồi
chuông báo tử của tất cả chúng ta.
Morris đang run bần bật. McMurdo rót một li rượu
whisky và đưa cho ông ta.
- Đây là một liều thuốc cho ông. Bây giờ, ông hãy
nói vì sao ông lo sợ đến thế.
Morris uống cạn li rượu, sắc mặt có hồng lên đôi
chút.- Tôi nói một câu thôi: Có một thám tử đang
dò theo dấu vết của chúng ta.
McMurdo nhìn ông ta, kinh ngạc:
- Thì ở đây lúc nào mà chẳng nhung nhúc những cảnh
345sát và thám tử?
- Không. Đây không phải là một người ở trong vùng
này. Ông có nghe nói đến “Những người của
Pinkerton” không?
- Cái tên này có gợi cho tôi một cái gì đấy.
- Đó! Đây không phải là một tổ chức của chính phủ.
Đây là một tổ chức muốn làm được việc, muốn có kết
quả kia. Nếu một người của Pinkerton đang theo dõi
công việc của chúng ta, thì chúng ta chắc bị tiêu
diệt mất.
- Thế thì phải thủ tiêu cái thằng ấy đi.
- Ồ, mọi người cũng sẽ nghĩ thế thôi. Cho nên
chuyện này sẽ kết thúc bằng một án mạng.
- Tất nhiên.
- Nhưng tôi không phải là kẻ chỉ điểm người cần bị
346giết. Ôi! Tôi biết làm gì bây giờ?
Morris đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, dáng
điệu cực kì bối rối. Nhưng những lời nói của ông ta
đã làm McMurdo xúc động. Anh nắm lấy hai vai
Morris và lắc thật mạnh.
- Không làm được gì cả, nếu cứ than khóc như một
mụ già. Trước hết phải biết thằng đó là ai? Nó hiện
ở đâu? Bằng cách nào ông lại biết nó có ở đây? Tại
sao ông lại đến tìm tôi?
- Tôi đã nói với ông rằng trước khi đến đây, tôi
đã có một cửa hàng ở miền Đông, tại đó tôi có nhiều
bạn tốt. Một người trong bọn họ hiện làm việc ở sở
Bưu điện. Ngày hôm qua tôi nhận được thư của anh
ta. Đây, cái đoạn ở trên đầu trang này. Ông có thể
đọc được.
347McMurdo cầm lấy bức thư:
“Ở vùng anh, bọn Tiên Phong hoạt động như thế
nào? Chúng tôi đọc báo thấy nói nhiều về bọn chúng
lắm. Chỗ quen biết với nhau, tôi trông đợi tin tức
anh. Năm tập thể lớn và hai công ty Hỏa xa đã đứng
ra gánh vác việc này, và họ làm đến nơi đến chốn
lắm. Họ muốn có kết quả thực sự. Theo lệnh của họ,
đích thân Pinkerton chỉ huy chiến dịch này và đã
phái đến đó thám tử giỏi nhất của ông ta là Birdy
Edwards. Người ta đang chờ đợi ngày một ngày hai,
cái bọc mủ ung nhọt ấy sẽ được chọc thủng ra.”
Bây giờ mời ông đọc thêm phần tái bút.
“Tất nhiên, tôi biết được những điều nói trên là
vì công việc của tôi, cho nên anh đừng cho ai biết
nhé. Họ dùng một thứ mã riêng, mà anh có thể đoán
348cả ngày cũng không hiểu gì hết.”
McMurdo ngồi lặng đi một lát, tay vẫn không rời
bức thư. Màn sương mù vừa tan hết, để lộ ra một vực
thẳm trước mặt anh.
- Có ai biết việc này nữa không?
- Tôi không nói với ai cả.
- Người bạn của ông có viết thư cho ai nữa không?
- Anh ta có biết một hai người ở đây.
- Hội viên của Hội à?
- Hình như thế.
- Người bạn của ông có thể cho họ biết nhận dạng
của tên Birdy này, và nhờ đó chúng ta sẽ có thể tìm
ra hắn.
- Có thể lắm. Nhưng tôi tin rằng người bạn của tôi
không biết mặt tên Birdy đó. Anh ta chỉ cho tôi
349biết những tin tức đã thu lượm được trong công việc
của anh ta thôi.
McMurdo bỗng nhảy dựng lên:
- Tôi nắm được hắn rồi. Chúng ta may mắn quá!
Chúng ta sẽ thanh toán hắn trước khi hắn có thể làm
hại được chúng ta. Này, ông Morris, ông có để tôi
đảm nhiệm việc này không?
- Tất nhiên rồi.
- Ông yên tâm, cứ để một mình tôi xử trí. Tôi coi
như cái thư này là gửi đến cho chính tôi. Như thế
đối với ông đã được chưa?
- Tôi không đám đòi hỏi gì thêm nữa.
- Thế thôi, chúng ta ngừng ở đây nhé. Bây giờ tôi
xuống Hội quán để dự họp đây, và rồi chúng ta sẽ
cho tên Pinkerton này có dịp than khóc.
350- Ông không giết người thám tử ấy chứ?
- Ông biết càng ít càng tốt. Xin ông đừng hỏi tôi
nữa.
Morris lắc đầu buồn bã:
- Tôi có cảm giác là tay tôi đã vấy máu. McMurdo
đáp lại bằng một nụ cười ghê rợn:
- Tự vệ không phải là ám sát. Hoặc nó, hoặc chúng
ta.
McMurdo tuy mồm nói có vẻ cứng cỏi, nhưng những
hành động của anh lại tỏ ra là anh thấy sự đe dọa
rất nghiêm trọng. Trước khi ra khỏi nhà, anh đã hủy
hết những giấy tờ có thể buộc tội mình. Nhưng hình
như anh vẫn còn lo sợ một cái gì đó, nên trên
đường đến Hội quán, anh đã dừng lại trước cửa nhà
trọ của cụ Shafter, khi anh gõ khẽ vào cửa sổ thì
351Ettie chạy ra. Nhìn dáng điệu trang nghiêm của anh,
cô biết rằng một mối nguy hiểm đang gần kề.
- Có gì thế, anh đang bị nguy hiểm à?
- Chưa nguy hiểm lắm. Nhưng chúng ta nên đi khỏi
nơi đây trước khi nó trở nên tệ hại hơn.
- Đi hả anh?
- Chiều hôm nay anh nhận được một số tin tức, và
thấy nhiều nguy hiểm đang chờ anh.
- Cảnh sát à?
- Không, anh đã dính líu quá sâu vào rồi, và bây
giờ anh muốn rút khỏi đây, không chậm trễ nữa.
- Đó là con đường cứu nguy cho anh đó!
Không một lời nói, Ettie đặt bàn tay mình vào tay
người yêu.
- Tốt lắm. Nhiều sự việc sắp xảy ra dồn dập trong
352thung lũng này. Nhiều người trong bọn anh phải tự
lo lấy thân mình. Nếu anh ra đi, em phải đi ngay
với anh.
- Em sẽ theo anh sau.
- Không, em đi ngay cùng với anh. Anh có quen biết
một bà rất tốt, anh sẽ đưa em đến đó để chờ ngày
làm lễ cưới.
- Vâng, em sẽ đi.
McMurdo đi tới nơi Hội họp. Đến nơi, anh được chào
đón một cách vui vẻ. Phòng họp đầy nghẹt người.
Qua màn khói thuốc lá, anh trông thấy cái bờm tóc
đen của ông Toán trưởng, bộ mặt độc ác của thằng
Teddy, cái tướng diều hâu của thư kí Harraway, cùng
khoảng một tá những chức sắc cao cấp của chi
nhánh. Anh mỉm cười khi nghĩ rằng, tất cả bọn này
353rồi sẽ phải cuống cuồng lên vì cái tin anh đem đến.
Ông chủ tọa cuộc họp tuyên bố:
- Chúng tôi vui mừng thấy anh đến họp, môn huynh
McMurdo. Chúng tôi đang bàn về một vụ rất khó phân
giải.Một người ngồi kế bên nói cho anh hay:
- Chuyện Lawler và Andrews đấy mà. Cả hai đều đòi
tiền thưởng. Ai mà biết được đứa nào đã bắn viên
đạn quyết định cơ chứ.
McMurdo đứng dậy và dang tay ra. Nét mặt bất
thường của anh chiếm hết sự chú ý của mọi người, cả
phòng họp im phăng phắc. McMurdo trịnh trọng nói:
- Thưa sư huynh tôn kính, tôi yêu cầu được thông
báo khẩn cấp. McGinty nhắc lại:
- Môn huynh McMurdo yêu cầu được thông báo khẩn
354cấp.
Theo nội quy của chúng ta thì đây là một quyền ưu
tiên phải tôn trọng. Bây giờ, môn huynh, chúng tôi
nghe anh nói.
McMurdo rút cái thư ở trong túi ra.
- Thưa sư huynh tôn kính và thưa các môn huynh,
hôm nay tôi mang đến đây những tin tức không tốt.
Tin đó là: Những công ty có quyền lực nhất và giàu
có nhất của xứ này đã họp nhau lại để tiêu diệt
chúng ta. Ngay lúc này đây, một thám tử của
Pinkerton, một người mang tên Birdy đang hoạt động
trong thung lũng, thu thập những chứng cớ có thể
tiêu diệt hết chúng ta. Đó là tình trạng mà tôi yêu
cầu bàn bạc khẩn cấp.
Cả hội nghị ngồi chết lặng đi, không ai nói câu
355nào. Một lát sau, chủ tọa mới lên tiếng:
- Anh có chứng cớ gì không?
- Chứng cớ ở trong bức thư này...
Anh đọc đoạn thư cần thiết, rồi nói tiếp:
- Đây là một vấn đề danh dự của tôi. Tôi không thể
cho biết chi tiết hơn về bức thư này, cũng không
thể để mọi người chuyền tay nhau đọc được.
Một môn huynh đã có tuổi đứng dậy, nói:
- Thưa ông chủ tọa, xin cho phép tôi được phát
biểu. Tôi đã có nghe nói đến cái tên Birdy. Hắn là
phụ tá đắc lực của Pinkerton.
- Ở đây ai biết mặt hắn? - McGinty hỏi.
- Có. Tôi biết! - McMurdo trả lời.
Một tiếng rì rầm ngạc nhiên truyền đi trong phòng
họp. McMurdo tiếp tục nói với một nụ cười đắc thắng
356trên môi.
- Nếu chúng ta hành động khôn ngoan và nhanh chóng
thì có thể thoát ra được bước nguy hiểm này. Nếu
tôi có được sự tin tưởng và sự hỗ trợ của chi nhánh
thì các vị không có gì phải lo sợ nhiều nữa.
- Chúng ta có gì phải lo sợ. Hắn biết gì về công
việc của chúng ta cơ chứ!
- Thưa ông Hội đồng, ông có thể nói được như vậy
nếu như ai cũng thanh liêm như ông. Nhưng người này
có khả năng sử dụng hàng triệu bạc của bọn tư bản.
Vậy ông thử nghĩ xem, ở trong tất cả các chi
nhánh, họ lại không có một môn huynh nào sa ngã
trước bạc tiền? Tên thám tử này rồi cũng sẽ biết
hết những bí mật của chúng ta. Chỉ có một môn thuốc
để trị bệnh này mà thôi.
357Teddy nói dằn từng tiếng:
- Không để cho hắn ra khỏi thung lũng. McMurdo tán
thành nhiệt liệt:
- Hoan hô môn huynh Teddy, anh đã nói rất đúng.
- Bây giờ làm sao nhận ra nó? McMurdo nói một cách
trang nghiêm:
- Thưa ông Toán trưởng. Đây là một vấn đề sinh tử,
quá quan trọng để có thể đem ra bàn bạc rộng rãi.
Tôi không nghi ngờ bất cứ một người nào trong chúng
ta ở đây, nhưng nếu một câu nói chợt lọt đến tai
người ấy, thì chúng ta không có một hi vọng nào
khống chế được hắn. Tôi xin đề cử chính ông, ông
chủ tọa, môn huynh Teddy và năm môn huynh khác nữa.
Lúc đó trước Ủy ban, tôi sẽ nói rõ về những gì tôi
biết và các biện pháp nên theo.
358Đề nghị của McMurdo được chấp nhận ngay, và một Ủy
ban được chỉ định. Ngoài McGinty và Teddy còn có
Harraway, Carter, Tiger Cormac và hai anh em
Willaby. Buổi họp hàng tuần chấm dứt sớm hơn mọi
lần trong sự buồn rầu, lo sợ. Lần đầu tiên thấy
hiện lên bầu trời trong sáng của họ những đám mây
đen của pháp luật.
Khi mọi người đã ra về hết, trước mặt Ủy ban tín
nhiệm, McGinty ra lệnh:
- McMurdo, nói đi!
Bảy người trong ủy ban ngồi như những tượng đá
lạnh lùng trong các ghế bành.
- Birdy đang ở đây nhưng với cái tên khác. Hắn lấy
tên là Steve Wilson và hiện ở Hobson’s Patch.
- Sao anh biết?
359- Tôi ngẫu nhiên có nói chuyện với hắn một lần mà
không biết. Hồi đó tôi không nghĩ gì nhiều về
Pinkerton, và có lẽ tôi cũng đã quên hẳn cái tên ấy
đi nếu không nhận được bức thư này. Nhưng bây giờ
thì tôi chắc chắn là hắn rồi. Tôi đã gặp hắn hôm
thứ Tư vừa rồi, trên chuyến tàu. Hắn nói hắn là kí
giả của tờ New York Times. Tôi
tin là thật. Hắn muốn biết về những Người Tiên
Phong, nói là để viết gửi về tòa soạn. Tất nhiên là
tôi không hở ra một chuyện gì. Hắn nói với tôi
rằng: “Tôi sẽ trả tiền, mà trả rất đắt để có những
chi tiết có thể làm vui lòng ông chủ báo của tôi.”
Tôi đã bịa ra cho hắn nghe những điều mà tôi cho là
hắn sẽ thích thú. Sau đó, hắn đưa cho tôi một tờ
giấy bạc hai mươi đô-la và nói rằng: “Anh sẽ có
360mười lần hơn thế này, nếu anh tìm được cho tôi
những thứ gì mà tôi cần.”
- Thế anh đã kể những gì với hắn?
- Tất cả những gì đến trong đầu tôi lúc ấy.
- Tại sao anh biết hắn không phải là nhà báo?
- Khi xe chạy đến Hobson’s Patch thì hắn xuống
tàu. Tôi cũng xuống. Cũng ngẫu nhiên khi tôi bước
vào phòng bưu điện thì thấy hắn ở trong đó đi ra.
Người đánh điện tín nói với tôi rằng: “Coi này, tôi
nghĩ có lẽ phải bắt hắn trả gấp đôi mới đúng!” Tôi
trả lời: “Tôi cũng nghĩ như ông.” Thì ra hắn đã
viết đặc cả một tờ điện tín những câu đọc lên không
ai hiểu gì cả. Người đánh điện nói, ngày nào hắn
cũng đánh đi những bức điện tối mò như thế.
- Anh nói có lí. Thế bây giờ chúng ta phải làm gì?
361- McGinty nói.
- Tại sao không xuống ngay dưới đó mà thanh toán
mẹ nó đi?
- Một người hỏi.
- Mà sớm chừng nào càng tốt chừng ấy.
- Tôi sẽ đi ngay tức khắc nếu tôi biết hắn ở đâu.
Hắn ở Hobson’s Patch, nhưng không biết ở nhà nào.
Nhưng tôi đã có sẵn một cái bẫy này, nếu các ông
chịu nghe tôi...
- Bẫy thế nào?
Ngày mai tôi sẽ đi Hobson’s Patch. Tôi sẽ nhờ
người đánh điện tín chỉ dẫn cho, và tôi sẽ tìm ra
hắn. Tôi sẽ nói với hắn rằng tôi cũng là một hội
viên của Hội Người Tự Do, và muốn bán những bí mật
của chi nhánh, hắn sẽ vồ ngay. Tôi sẽ nói rằng, các
362tài liệu hiện để ở nhà tôi, nhưng nếu ban ngày mà
đến đấy lấy, thì thật là điên. Tôi sẽ hẹn đến mười
giờ đêm. Chắc hắn đến thôi.
- Rồi sao nữa?
- Sau đó thì phần các ông muốn xử trí thế nào thì
tùy. Nhà trọ của bà quả phụ McNamara là một căn nhà
hẻo lánh. Bà chủ trọ của tôi là người tin cẩn
được. Nếu hắn hứa chắc với tôi là sẽ đến, thì tôi
sẽ báo cho các ông biết, và tôi muốn vào khoảng
chín giờ tối mai, cả bảy ông phải có mặt ở nhà tôi.
Hắn sẽ sập bẫy.
McGinty kết luận:
- Đồng ý về tất cả kế hoạch. 9 giờ tối mai chúng
tôi sẽ đến nhà. Anh chỉ việc đóng cửa sau lưng nó,
còn để mặc chúng tôi.
3637. BIRDY SẬP BẪY
Căn nhà nơi McMurdo ở trọ nằm ở ven thành phố và
xa đường cái đi lại. Trong những trường hợp khác,
bọn chủ mưu chỉ việc đưa con mồi đến đây, rồi trút
đạn lên nạn nhân. Nhưng đây là một trường hợp ngoại
lệ: Còn cần phải rõ người kia biết những gì, làm
cách nào mà biết và đã truyền đi những tin tức gì.
Nếu người thám tử đã làm xong công việc thu thập
tài liệu, thì cần phải biết ai đã phản bội để xử
trí tên ấy.
McMurdo đi xuống Hobson’s Patch như đã dự định
trước. Buổi sáng hôm đó, hình như cảnh sát lại đặc
biệt chú ý đến anh ta thì phải. Đại úy Marvin định
tới nói chuyện với anh, khi anh đứng đợi tàu ở sân
ga. Anh quay mặt đi không thèm trả lời. Đến chiều
364thì McMurdo trở về và đến tìm ngay McGinty ở nhà
Hội quán để báo tin:
- Hắn sẽ đến.
- Hoan hô! - Ông Toán trưởng vỗ tay reo mừng - Cậu
có tin là hắn biết gì nhiều lắm không?
McMurdo buồn bã gật đầu:
- Hắn đã ở đây ít nhất là sáu tuần rồi. Nếu hắn cứ
vung tiền ra trong suốt thời gian vừa qua, thì hắn
cũng đã thu được không ít tin tức và đã gửi những
tin ấy đi rồi đó.
McGinty la lên:
- Nhưng trong chi nhánh, mọi người đều vững vàng
như thành đồng lũy thép cả. Chỉ có cái thằng Morris
ấy thôi. Nếu có một người nào đi tố giác chúng ta
thì chính là nó. Tôi muốn cho hai đứa đến nhà nó
365ngay trước tối hôm nay để cho nó một trận và đồng
thời cũng tra hỏi nó xem có biết thêm gì không.
- Tôi không giấu ông là tôi cũng có thương hại lão
ấy, mà nếu lão ấy bị làm sao thì tôi cũng có phần
áy náy. Mặc dù lão có cách nhìn không giống ông và
tôi, nhưng tôi có cảm giác lão không phải là một
tên phản bội. Nhưng thôi, tôi đâu có dám can thiệp
vào chuyện giữa ông với lão.
- Tôi sẽ thanh toán nó.
- Nhưng xin ông hãy đợi cho đến mai, không nên để
cho người ta chú ý quá nhiều đến chúng ta trước khi
giải quyết xong vụ Pinkerton.
- Anh nói có lí. Và chúng ta sẽ bắt thằng Birdy
phải khai rõ là hắn đã nhận được những tin tức từ
người nào. Dù chúng ta có phải moi tim hắn ra để
366bắt hắn nói, cũng phải làm cho kì được. Hắn có cảm
thấy là bị cài bẫy không?
- Tôi đã tóm được điểm yếu của hắn. Hắn sẵn sàng
đi từ đây đến New York, nếu có được những tài liệu
tốt. Tôi đã cầm tiền của hắn... - McMurdo rút ở
trong túi ra một xấp giấy đô-la.
- Hắn sẽ đưa cho tôi chừng này nữa khi nào hắn
thấy những tài liệu của tôi.
- Tài liệu nào?
- Tất nhiên tôi làm gì có tài liệu. Nhưng tôi đã
cho hắn thèm nhỏ nước dãi ra khi nói đến những nội
quy, những sổ thanh toán, những đơn xin nhập hội.
Hắn tin chắc rằng, trước khi đi khỏi nơi đây, hắn
sẽ mò được đến tận đáy của vấn đề.
McGinty thì thầm với giọng dễ sợ:
367- Ừ, hắn cũng không nghĩ sai đâu. Thế hắn có hỏi
anh tại sao không mang những tài liệu đó đi theo
luôn không?
- Ai dại gì mang theo trong mình từng ấy tài liệu?
Ngay mới buổi sáng hôm nay, đại úy Marvin còn muốn
nói chuyện với tôi ngoài sân ga nữa kia.
- Ừ, người ta cũng đã có thuật lại với tôi như
vậy. Tôi sợ rằng, không khéo rồi cuối cùng chỉ có
một mình anh sẽ phải gánh chịu tất cả sức nặng của
vụ này. Sau khi thủ tiêu hắn trong một cái giếng
cũ, chúng ta không thể gạt bỏ được hai sự kiện là
hắn thì ở Hobson’s Patch, mà hôm nay chính anh cũng
đi Hobson’s Patch.
- Ban đêm thì sẽ không có một ai trông thấy hắn
vào nhà tôi, và tôi cuộc rằng cũng sẽ không ai
368trông thấy hắn ở trong nhà tôi đi ra. Bây giờ xin
ông Hội đồng nghe kĩ tôi nói đây. Các ông sẽ đến
đây đúng giờ đã quy định. 10 giờ thì hắn đến. Hắn
sẽ gõ cửa ba lần.
Chính tôi sẽ ra mở cửa cho hắn vào. Tôi đi đằng
sau hắn và sẽ khóa cửa lại. Thế là xong.
- Ừ, dễ như trở bàn tay thôi.
- Nhưng chuyện tiếp theo mới là cần suy nghĩ. Hắn
có vũ khí, ai cấm hắn không được cảnh giác và đề
phòng. Ông hãy cứ tưởng tượng rằng, tôi đưa hắn vào
ngay một căn buồng khi hắn tưởng chỉ có một mình
tôi thôi. Thế là sẽ nổ ra một cuộc đọ súng, và có
thể có những cái không may xảy đến cho một vài anh
em chúng ta.
- Đúng.
369- Và tiếng súng có thể làm cho tất cả bọn cớm
trong thành phố này đổ xô đến đây.
- Anh nói có lí lắm.
- Cho nên tôi định xếp đặt mọi việc như thế này.
Các ông sẽ ngồi tất cả ở căn phòng lớn. Tôi mở cửa
ngoài đường, đưa hắn vào buồng khách nhỏ bên cạnh
cửa. Tôi sẽ để hắn ngồi đó trong khi tôi đi vào lấy
tài liệu. Tôi sẽ trở lại với một vài tài liệu giả.
Trong khi hắn đọc, tôi sẽ nhảy vào ôm chặt tay
hắn. Các ông sẽ nghe thấy tiếng tôi gọi và chạy ùa
sang, xin các ông chạy nhanh nhanh cho một chút.
- Kế hoạch thế tốt đấy. Chi nhánh Hội ta sẽ mang
nợ anh nhiều lắm đây.
- Thưa ông Hội đồng, dĩ nhiên tôi không còn là một
tên lính mới tò te nữa.
370Khi về đến nhà, anh bắt tay vào việc chuẩn bị cho
cái buổi tối ghê gớm này. Trước hết anh đem khẩu
súng ra lau chùi, bôi mỡ và lắp đạn. Rồi anh kiểm
tra lại căn buồng, nơi sẽ giương bẫy. Cuối cùng,
anh kể hết mọi chuyện cho Scanlan nghe và nói thêm:
- Này Scanlan, đêm nay anh nên đi ngủ ở nơi khác.
Trước sáng ngày mai, nơi đây sẽ có nhiều máu đấy.
- Tôi sợ chi nhánh đánh giá tôi không tốt, chứ tôi
rất muốn theo lời khuyên của anh.
Bọn sát nhân đến đúng giờ quy định. Nhìn bề ngoài
chúng có vẻ là những công dân ăn mặc đẹp đẽ, sạch
sẽ. Nhưng nếu người nào biết xem tướng mặt, thì sẽ
hiểu rằng Birdy ít có khả năng sống sót được.
Chủ nhà có để chai whisky trên bàn, nên chúng vội
371vã nốc rượu ngay cho ấm bụng. Teddy và Cormac đã
chếnh choáng say. Rượu hun đốt thêm sự độc ác tự
nhiên của chúng. Cormac để tay gần cái bếp lò sưởi
đã được đốt lên. Hắn nói:
- Nóng thế này, được đấy.
Thằng Teddy hiểu ngay ý nghĩa của câu nói đó, gật
đầu tán thành:
- Ừ, được! Đem trói hắn vào đây thì sự thật nào
cũng phải khạc ra hết.
McMurdo nói:
- Đừng lo. Chúng ta sẽ bắt hắn phải khai.
McMurdo, con người này có lẽ có những dây thần
kinh bằng thép hay sao ấy. Tất cả công việc khó
khăn nguy hiểm này đặt trên hai vai anh ta, mà anh
ta vẫn bình tĩnh, như không có gì xảy ra cả.
372Tên Toán trưởng nói với McMurdo:
- Một mình anh thu xếp riêng với hắn. Chừng nào mà
tay anh còn chưa nắm được vào cổ hắn, thì hắn sẽ
chưa biết sự có mặt của chúng tôi.
- Có thể hắn sẽ không đến. Có thể hắn cảm thấy có
nguy hiểm
- Tên thư kí nói.
- Thế nào hắn cũng đến. Hắn ao ước được đến đây
cũng không kém gì các ông ao ước được thấy hắn. Này
nghe xem! - McMurdo chợt nói.
Chúng sững người lại, đứng im lặng như tượng đá.
Ba tiếng gõ vang lên ở cánh cửa ngoài đường.
McMurdo giơ một tay lên để căn dặn phải thận
trọng, cả bảy cặp mắt cùng lóng lánh chung một ánh
đắc thắng, cả bảy bàn tay đều đặt lên vũ khí.
373- Không được gây tiếng động nữa - McMurdo thì
thầm.Rồi anh bước ra khỏi phòng và đóng cửa kĩ
lưỡng. Bọn sát nhân căng tai nghe ngóng. Chúng nhận
thấy bước chân của McMurdo đi trên hành lang, rồi
thấy anh mở cửa ngoài. Có vài lời chào đón trao đổi
qua lại, sau đó chúng nghe thấy bước chân của một
người đi rụt rè trong nhà và một giọng nói mà chúng
không quen biết. Một lát sau, một cánh cửa đập
mạnh và có tiếng chìa khóa xoay. Thế là xong, con
mồi đã sập bẫy. Tiger Cormac phá lên cười ghê rợn.
McGinty vừa bắt nó im, vừa thì thào:
- Đồ ngu. Mày làm hỏng việc bây giờ!
Ở buồng bên, nghe có tiếng người nói chuyện, nói
rất lâu. Rồi cửa mở. McMurdo hiện ra, một ngón tay
để lên môi ra hiệu.
374Anh ta đi đến một đầu bàn và nhìn kĩ từng bộ mặt.
Một sự thay đổi rất tế nhị xuất hiện ở anh ta,
gương mặt lạnh lùng, rắn đanh lại, đôi mắt sâu đậm,
long lanh. Rõ ràng anh ta đã lột xác thành một
người có uy quyền đối với người khác. Bọn sát nhân
nhìn anh ta không chớp mắt, nhưng anh ta vẫn không
nói gì. Chỉ nhìn chúng bằng cặp mắt kì lạ.
Cuối cùng McGinty phải lên tiếng:
- Thế nào. Thằng Birdy có ở đây không? McMurdo
chậm rãi trả lời, dằn từng tiếng:
- Có. Tao là Birdy đây.
Mười giây đồng hồ trôi qua, sự im lặng nặng nề đến
nỗi người ta tưởng căn phòng này không có người.
Bảy bộ mặt xám ngoét, quay nhìn về hướng con người
đang chế ngự chúng. Trong tiếng kính bị bể vỡ, rèm
375cửa bị rớt tung ra và qua mỗi khung cửa sổ, những
họng súng đen ngòm chĩa vào. McGinty rống lên như
một con gấu bị thương, nhảy bổ ra phía cửa. Hắn
chạm ngay vào mũi súng và đôi mắt xanh của đại úy
Marvin. Tên Toán trưởng lùi lại, ngã ngồi xuống
ghế.
McMurdo gật đầu tán thành:
- Ông Hội đồng, ông ngồi chỗ ấy tốt đấy. Còn mày,
Teddy, nếu mày không cất tay ra khỏi khẩu súng thì
mày sẽ không được gặp mặt người đao phủ đâu. Bỏ tay
ra. Đó. Thế được đấy. Có bốn mươi tay súng xung
quanh ngôi nhà này. Marvin, hãy tước hết súng của
chúng nó đi.
Bọn giết người bị tước hết vũ khí. Kinh ngạc, sợ
hãi, buồn rầu, chúng vẫn ngồi cả xung quanh bàn.
376Người giương bẫy dõng dạc nói lớn:
- Tao muốn nói với chúng mày một vài lời trước khi
chia tay. Tao chính là Birdy của tổ chức Pinkerton
đây, tao đến đây là để tiêu diệt chúng mày. Tao đã
phải chơi một ván bài khó khăn và nguy hiểm.
Bảy bộ mặt tái nhợt, sững sờ. Bảy cặp mắt trong đó
cháy bỏng một mối căm hờn không bao giờ có thể dập
tắt được.
- Chúng mày tưởng là ván bài chưa kết thúc phải
không? Nó kết thúc rồi: Ở đây bảy đứa và ngay đêm
nay, sáu mươi tay chân của chúng mày sẽ ngủ trong
nhà tù. Khi đảm nhiệm vụ án này, tao không tin rằng
trên đời này lại có một cái hội như hội của chúng
mày. Tao tưởng đó chỉ là những chuyện phóng đại của
một số nhà báo. Người ta nói với tao rằng, tao sẽ
377phải chạm trán với những “Người Tự Do”, vì thế tao
đã đi đến Chicago để trở thành một “Người Tự Do”. Ở
đó, tao thực sự tin rằng đúng là những chuyện
phóng đại của báo chí, vì tao thấy Hội không có gì
xấu xa, mà trái lại đằng khác. Vì phải làm cho trọn
vẹn cuộc điều tra, nên tao đã đến thung lũng này.
Khi đến đây tao mới hiểu rằng tao đã lầm. Cho nên
tao đã ở lại đây để nghiên cứu vấn đề cho cặn kẽ.
Tao chưa hề giết người nào ở Chicago. Tao chưa bao
giờ làm bạc giả. Những đồng đô-la tao đưa cho chúng
mày tiêu, tuy tao nói là bạc giả nhưng chính là
bạc thật. Thế là tao được chấp nhận vào cái chi
nhánh địa ngục của chúng mày và cùng chúng mày bàn
bạc những chuyện giết người. Cái đêm hôm tao được
nhập vào chi nhánh, chúng mày đi hành hung cụ
378James. Tao không báo kịp cho cụ biết, nhưng tao đã
giữ tay mày lại, Teddy, khi mày định giết ông cụ.
Tao không cứu được anh bạn Menzies, vì tao không
biết rõ sự việc, nhưng tao sẽ treo cổ những tên
giết hai người đó. Tao đã báo tin cho Wilcox, để
ông ta có thể cùng vợ và các con thoát đi khỏi
trước khi tao đặt thuốc nổ. Cũng có nhiều vụ tao
không thể báo trước cho nạn nhân biết. Nhưng rõ
ràng đã có biết bao nhiêu lần, những người mà chúng
mày định ám hại đã trốn thoát.
McGinty rít lên giữa hai hàm răng:
- Thằng phản bội!
- McGinty! Mày gọi tao là “phản bội”, nhưng sẽ có
hàng nghìn người khác gọi tao là “người tốt”, người
đã xuống tận địa ngục để cứu họ lên. Trong cái địa
379ngục này, tao cố sống cho đến khi nắm được tất cả
từng đứa một, từng bí mật trong lòng bàn tay này.
Nhưng một bức thư đã khiến tao sắp bị lộ. Vì vậy
tao phải hành động ngay tức khắc. Tao không còn gì
nói thêm với chúng mày nữa. Thôi, bây giờ ông
Marvin, ông hãy đem giam bọn này lại. Chuyện còn
lại ta sẽ làm sau.
Scanlan được giao một chiếc phong bì dán kín mà
anh ta có nhiệm vụ phải đưa đến địa chỉ của Ettie.
Sáng hôm sau, một cô gái trẻ đẹp và một người đàn
ông khăn áo trùm kín người bước lên một chuyến tàu
đặc biệt của Công ty Hỏa xa dành riêng cho họ, chạy
hết tốc lực rời khỏi một vùng đất lầy nguy hiểm.
Mười ngày sau, họ làm lễ cưới ở Chicago. Cụ Shafter
là người làm chứng trong cuộc hôn nhân đó.
380Vụ xử án “Những Người Tiên Phong” được tổ chức cực
kì cẩn mật. Chúng cố chối cãi, nhưng vô ích.
McGinty và tám tên phụ tá chết trên đoạn đầu đài,
năm mươi đứa khác ngồi tù. Thắng lợi của Birdy trọn
vẹn hoàn toàn. Nhưng thằng Teddy Baldwin không
phải lên đoạn đầu đài. Anh em thằng Willaby cũng
thế. Và một vài thằng hung thần khác cũng thoát.
Chúng bị giam giữ trong mười năm, rồi chúng tìm lại
được tự do. Ngày chúng ra khỏi nhà tù, Birdy biết
rằng ông bắt đầu gặp khó khăn. Chúng ám sát hai
lần, nhưng ông đều thoát. Ông phải rời Chicago, đổi
tên để sinh sống ở California. Tại đây Ettie từ
trần. Một lần khác ông đã suýt bị giết. Mang một
cái tên mới là Douglas, ông làm việc trong một hầm
mỏ với một người hùn vốn tên là Barker, và trở nên
381giàu có. Có người báo rằng: Bọn khát máu đã lại
đánh hơi thấy dấu vết của ông rồi. Thế là ông vội
vã xuống tàu trở về Anh, đổi tên là John Douglas,
lấy vợ và sống như một nhà quý tộc nông thôn tại
vùng Sussex, rồi sau đó tại lâu đài cổ này – nơi
xảy ra câu chuyện như ta đã thấy.
8. TÁC PHẨM BẬC THẦY
Trước tòa Đại hình, Douglas được trắng án vì đã
hành động trong hoàn cảnh tự vệ.
Holmes viết thư cho bà vợ ông ta: “Bằng mọi giá,
bà hãy đưa ông đi khỏi nước Anh. Ở đây có những tổ
chức còn mạnh hơn gấp bội những tổ chức mà ông đã
thoát được. Không thể nào có an toàn cho ông ở nước
Anh này.”
Hai tháng đã trôi qua. Vụ án chìm dần vào dĩ vãng.
382Một buổi sáng, có một bức thư khó hiểu được nhét
vào hòm thư của chúng tôi.
“Ông Holmes đáng thương của tôi ơi! Ôi... ôi...”
Bức thư nặc danh chỉ có mấy chữ đó thôi. Tôi bật
cười. Holmes thì trở nên nghiêm trang:
- Quỷ quái thật!
Và anh ngồi lặng đi, vầng trán cau lại.
Tối khuya hôm đó, bà chủ nhà trọ bước vào, nói
rằng có một vị khách muốn được gặp ông Holmes về
một vấn đề quan trọng. Người khách được mời vào
ngay: Đó là ông Barker. Với gương mặt căng thẳng,
đôi mắt hoảng hốt, ông nói:
- Tôi mang đến những tin tức xấu.
- Đó là điều tôi đang sợ đây - Holmes nói.
- Ông nhận được một bức điện?
383- Thư của người nhận được bức điện đó.
- Chuyện của ông Douglas. Người ta nói với tôi
rằng, tên thật của ông ta là Birdy. Hai ông bà đã
xuống tàu Palmyra đi Nam Phi từ ba tuần lễ nay rồi.
Tối hôm qua, tàu nghỉ ở Cape Town. Sáng nay, tôi
nhận được bức điện này của bà Douglas:
“Douglas mất tích dưới biển trong một trận bão
ngoài khơi St. Helena. Không ai biết tai nạn xảy ra
như thế nào.
IVY DOUGLAS”
Thì ra như vậy đó. Việc bố trí và dàn cảnh thật là
tuyệt vời! - Holmes nói.
- Ông không tin đây là một tai nạn?
- Phải.
- Thế thì Douglas đã bị mưu sát?
384- Phải.
- Tôi cũng nghĩ thế. Bọn “Người Tiên Phong”.
Holmes ngắt lời:
- Không phải đâu. Đây là một bàn tay bậc thầy kia.
Đây không còn là chuyện một khẩu súng săn cưa
nòng, một khẩu súng lục. Mà là tác phẩm vĩ đại của
một bậc thầy. Trông những nét bút tuyệt vời này,
tôi có thể nhận ra ngay đây là một tác phẩm của
Moriarty. Vụ án mạng này không phải là sản phẩm của
nước Mỹ mà chính là của London đó.
- Vì sao vậy?
- Vì nó đã được thực hiện bởi một người “bất bại”.
Một bộ óc lớn và một tổ chức khổng lồ dùng để thủ
tiêu một người mà thôi. Khác nào dùng búa tạ để đập
một hạt dẻ: Một sự vung phí năng lực quá cỡ, hạt
385dẻ đã bị đập nát bét.
- Nhưng bậc thầy ấy sao lại dính líu vào vụ này
được?
- Thằng Porlock chính là một trong những tay chân
của bậc thầy đó. Người Mỹ rất khôn ngoan. Khi họ dự
định đánh một trận ở Anh, thì họ nghĩ ngay đến
việc hợp tác với một chuyên gia lớn về tội ác ở
Anh. Mới đầu Moriarty chỉ huy hoạt động bộ máy của
hắn để tìm ra Douglas. Rồi hắn chỉ dẫn cho hung thủ
cách tiến hành công việc như thế nào cho tốt.
Nhưng Teddy đi từ Mỹ sang đây đã thất bại. Bấy giờ
Moriarty tự đứng ra đảm nhận việc này, và đã giải
quyết nó bằng một tác phẩm bậc thầy.
Barker đùng đùng nổi giận, nắm chặt bàn tay, tự
đấm vào trán.
386- Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận điều đó ư? Sẽ
không có ai lên đến ngang tầm của tên ma vương này
sao?Holmes chậm rãi trả lời:
- Không. Tôi không nói rằng tên ma vương ấy sẽ
không thể bị đánh bại. Nhưng ông phải để cho tôi có
thời gian... Vâng, phải có thời gian.
Chúng tôi ngồi lặng đi. Đôi mắt tiên tri của
Holmes vẫn như đang muốn chọc thủng bức màn tương
387